Ánh sao lọt vào gió cát

Quyển 1 - Chương 1

ĐÔI NÉT VỀ NGỌC MÔN QUAN

(tác phẩm có bối cảnh ở đây, hơn nữa mình rất thích Ngọc Môn quan nên trong lúc tìm hiểu về nó thì tiện thể đăng lên luôn)

Ngọc Môn quan

Ngọc Môn quan hay đèo Ngọc Môn(Tiếng Trung phồn thể: 玉门关; Tiếng Trung giản thể: 玉門關; bính âm: Yumen Guan) là tên của một con đèo nằm ở phía tây Đôn Hoàng, thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Trong thời cổ đại, đây là nơi con đường tơ lụa đi qua, và là một trong những con đường quan trọng kết nối khu vực Trung Á với Trung Quốc, trước đây được gọi là Tây Vực. Nằm ở phía nam của Ngọc Môn quan là Dương quan, đó cũng là một điểm quan trọng của con đường tơ lụa.

Mặc dù trong tiếng Trung quan (關/关) thường được dịch đơn giản là "cổng" hay ải, nhưng ý nghĩa cụ thể hơn của nó là một "cổng biên giới" để phân biệt với một con đèo thông thường thông chạy qua các ngọn núi. Ngọc Môn quan (玉門關) và Dương quan (陽關) có nguồn gốc từ: yu (玉) = ngọc + men (門) = cửa; và yang (陽)= phía có ánh nắng, phía nam một ngọn đồi, phía bắc một con sông, và guan (關)= biên giới, đèo, ải. Đây là hai cửa ải nổi tiếng nhất dẫn tới phía bắc và phía tây của con đường tơ lụa từ lãnh thổ Trung Quốc.[2] Trong thời gian đầu nhà Hán, một tuyến phòng thủ được thành lập từ Tửu Tuyền ở Cam Túc thuộc Hành lang Cam Túc kéo dài về phía tây, và Ngọc Môn quan là điểm cuối của nó.[3]

Không nên nhầm lẫn với thành phố Ngọc Môn (玉门) ở Cam Túc, Trung Quốc. Mặc dù cả hai đều thuộc cùng một đơn vị hành chính là địa cấp thị Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc, nhưng Ngọc Môn quan lại nằm cách khoảng 400 km về phía tây của thành phố cùng tên gọi.

Ngọc Môn quan cũng là một trong số 22 địa điểm của Trung Quốc, một phần của Con đường tơ lụa đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới trong năm 2014.

CON ĐƯỜNG TƠ LỤA HUYỀN THOẠI

Với chuyến du hành dài 16 năm đi Ấn Độ thỉnh kinh, Huyền Trang (600-664) đã để lại dấu tích không bao giờ phai mờ trong lịch sử Phật giáo tại Trung quốc và miền Đông Á. Công trình biên khảo của vị đại dịch sư này vĩ đại đến nỗi người ta không thể tưởng tượng nền Phật giáo tại châu Á sẽ như thế nào nếu vắng bóng ông trong lịch sử hay nếu ông không may bỏ mình trên con đường gian khổ của 13 thế kỷ trước.

Con đường thuở xưa từ Trung quốc đi Ấn Độ của Huyền Trang là một nguồn cảm khái vô tận cho người đời sau. Dựa trên Đại Đường Tây Vực Ký của ông mà Ngô Thừa Ân đã sáng tác Tây Du Ký trong thế kỷ thứ 14. Trong thời cận đại nhiều nhà thám hiểm và khảo cổ phương Tây đã từng bước tìm lại dấu chân của ông. Trong số đó ta có thể kể Marc Aurel Stein (1862-1943), người Hung-ga-ri, mà trong tác phẩm Innermost Asia của ông, ta có thể dò tìm lại một vài nơi đánh dấu tình trạng đáng gọi là thập tử nhất sinh của Huyền Trang. Gần đây nhất Richard Bernstein, trên đường theo lộ trình của ông, tìm đến thị trấn Termez, nằm trên giòng sông biên giới giữa Uzbekistan và Afghanistan. Đây là nơi Huyền Trang băng qua sông để hướng về Ấn Độ. Bernstein viết trong tác phẩm Ultimate Journey (1) "Vào thế kỷ thứ bảy, không có cầu nhưng dễ dàng vượt qua sông. Bây giờ tuy có cầu, nhưng không thể nào đi qua được". Lý do là trong thời kỳ khi Bernstein đến, Afghanistan còn nằm trong vòng kiểm soát của Taliban.

Những bến đò, suối nước, sa mạc, ốc đảo ngày nọ của Huyền Trang đã dần dần được xác định. Theo chân người xưa, người viết những dòng này tìm đến Lan Châu, thủ phủ của tỉnh Cam Túc, nơi mà Huyền Trang phải vượt qua sông Hoàng Hà, con sông lớn thứ hai của Trung quốc. Tuy vậy vượt sông Hoàng Hà trong thế kỷ thứ bảy hẳn không phải là quá khó khăn vì điểm này nằm trên trục chính của Con đường tơ lụa, vốn đã được thiết lập từ trước công nguyên. Qua bờ bắc của Hoàng Hà là đến "biên địa" của Trung quốc thời đó, không ai được lai vãng nếu không có phép của nhà vua. Ra đi trong lệnh cấm của triều đình, Huyền Trang phải lẩn tránh các trạm gác và thường phải đi vào đêm.

Phía tây sông Hoàng Hà là một giải đất dài và hẹp mà người Trung quốc gọi là hành lang Hà Tây (Hexi) với chiều dài khoảng 1200km. Dọc theo phía nam của Hà Tây là dãy Kỳ Liên sơn với vô số đá núi hình thù kỳ dị, chúng được mệnh danh là "quái thạch". Phía bắc Hà Tây chính là sa mạc Gobi mênh mông. Vì lẽ đó, xưa cũng như nay, người cũng như vật đều chỉ có thể di chuyển trên hành lang này trên trục đường Đông-Tây. Trước Huyền Trang gần hai trăm năm, một nhân vật đi ngược chiều từ Tây sang Đông, đó là Cưu-ma-la-thập (344-413). Ông cũng là một vị đại Dịch sư Phật giáo mà tháp của ông nằm tại Vũ Uy (Wuwei), trên Con đường tơ lụa. Qua khỏi Lan Châu chặng đầu tiên mà Huyền Trang dừng chân chính là Vũ Uy. Hẳn công trình của Cưu-ma-la-thập đã gieo những dự định đầu tiên trong lòng vị tăng sĩ trẻ tuổi. Một ngày nào đó trong khoảng năm 628, hai vị "gặp nhau" tại Vũ Uy, liệu hai vị có biết mình là hai cột trụ chống đỡ cho một tòa lâu đài kinh điển đồ sộ của miền Đông Á?

Trên Con đường tơ lụa đi về phía Tây, sau Vũ Uy khoảng 350km, khách du lịch sẽ sớm thấy một thành lũy to lớn mang tên là Gia Dụ quan (Jiayuguan). Đó chính là cửa ngõ xuất nhập khẩu của Trung quốc đối với các nước phương Tây và Trung Á. Ngày đó, Huyền Trang chưa gặp khó khăn với trạm canh vĩ đại này vì Gia Dụ quan chưa hề có, nó được xây khoảng sáu trăm năm sau. Cách Gia Dụ quan chừng 200km về phía Tây là một thị trấn của thời cổ đại nay vẫn còn, đó là An Tây (Anxi). Tại An Tây, Con đường tơ lụa phân ra nhiều nhánh để tránh núi non và sa mạc. Cũng chính tại đây Huyền Trang đã nghỉ chân để tìm đường đi tiếp.

Từ An Tây nhìn về phía Tây thì ốc đảo gần nhất là Ha Mật (Hami) mà ngày xưa được gọi là Y Ngô, cách khoảng 300km đường chim bay. Muốn đến, Huyền Trang phải lặn lội trong sa mạc, nhất là phải đi vòng để tránh năm phong hỏa đài, năm vọng gác rất nghiêm nhặt nằm dưới sự chỉ huy của một cửa ải mang tên Ngọc Môn quan. Ngày đó thương nhân mang đá quí và ngọc thạch từ phương Tây qua cửa quan này để đưa vào Trung quốc nên cửa ải này mang danh "Ngọc Môn", thế nhưng nó nằm trong một vùng sa mạc vô cùng hẻo lánh. Ngọc Môn quan không chỉ kinh hoàng đối với Huyền Trang mà đối với cả quan quân sống ở miền biên tái lạnh lẽo. Vương Chi Hoán, nhà thơ sống sau Huyền Trang khoảng một trăm năm viết về Ngọc Môn quan như sau trong bài thơ nổi tiếng Xuất tái:

Hoàng hà viễn thướng bạch vân gian

Nhất phiến cô thành vạn nhận san

Khương địch hà tu oán dương liễu

Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan

Xa xa, sông Hoàng Hà leo lên tận khoảnh mây trắng

Một vuông thành cô quạnh, muôn trượng núi cao

Tiếng sáo người Khương cần chi thổi bài Chiết Liễu

Vì gió xuân nào có qua cửa ải Ngọc Môn đâu!

Nơi đây Huyền Trang bắt đầu một trong những đoạn đường gian khổ nhất của chuyến Tây du. Trước khi dấn thân vào sa mạc, ngựa thì chết, hai đồ đệ đồng hành đều xin rút lui, Huyền Trang hoàn toàn bơ vơ. Bỗng nhiên một chàng trai người Hồ đến gặp, xin thụ giới và tình nguyện đưa Huyền Trang đi Ha Mật. Ông vô cùng mừng rỡ, bỏ tiền mua hai con ngựa. Sau đó một ông già người Hồ xin đổi một con ngựa mới mua bằng "một con ngựa hồng, già và yếu, từng đi Ha Mật trên mười lần".

Trên đường đi Huyền Trang suýt bị chàng trai người Hồ nọ ám hại nhưng ông vẫn thản nhiên và cho phép người đó trở lui. Qua ngày thứ sáu ông hoàn toàn kiệt sức vì thiếu nước, người và ngựa đều gục ngã. Huyền Trang biết hiểm nguy đã đến, ông không ngớt cầu nguyện Bồ-tát Quan Âm một cách chí thành. Đúng lúc đó thì con ngựa già ngẩng đầu quay sang lối khác. Huyền Trang biết ngựa đã tìm đúng đường cũ, đi theo và phát hiện ra một giòng suối ngọt, trong vắt (2). Trong thế kỷ 20, Aurel Stein xác định được vị trí của suối nước, đó là một nơi cách Ha Mật 56km về hướng Đông Nam.

Lòng khách bồi hồi khi đến Ha Mật. Ngày nay không rõ người dân trong thị trấn buồn tẻ này còn có ai nhớ đến Huyền Trang, kẻ đã lưu dấu nơi đây trong một ngôi chùa nhỏ cách đây 13 thế kỷ. Ha Mật nổi tiếng ở Trung quốc là nơi sản xuất dưa "Ha-mi-qua", một loại như dưa gang của chúng ta nhưng vô cùng dòn và ngọt. Kể ra thiên nhiên thật là hài hước, cho mọc loại dưa này trong một vùng sa mạc khô hạn. Trên đường dài rong ruổi theo Con đường tơ lụa cổ xưa, khách thường thấy vô số xe tải chở dưa về hướng đông, cung cấp dưa Tây vực cho vùng "Trung nguyên".

Ngọc Môn Quan

Liệu ngày xưa Huyền Trang được nếm thứ dưa ngọt lịm này hay không thì chúng ta không biết nhưng tại Ha Mật đoạn đời thỉnh kinh của ông đã bớt khổ. Lý do là cách Ha Mật khoảng 300km về phía Tây có một vương quốc tên gọi là Cao Xương. Tên nhà vua nước Cao Xương thời đó được sử sách ghi lại là Khúc Văn Thái, vị này là một người nhiệt thành hâm mộ đạo Phật. Khúc Văn Thái nghe danh tiếng của Huyền Trang, cho người đến mời ông ghé Cao Xương dừng chân và thuyết giảng. Huyền Trang nhận lời đến Cao Xương và giảng pháp cho cả triều đình ở đó. Nhà vua Khúc Văn Thái khẩn khoản yêu cầu nhà sư ở lại luôn, thậm chí dùng vũ lực ép uổng nhưng Hưyền Trang nhất định lên đường đi Ấn Độ thỉnh kinh. Cuối cùng Khúc Văn Thái phải chiều lòng Huyền Trang và thỉnh nguyện ông hãy trở lại Cao Xương trên đường trở về. Từ Cao Xương Huyền Trang phải còn đi qua 24 tiểu quốc nữa trước khi vượt Hy Mã Lạp sơn để đến Ấn Độ. Mười mấy năm sau trên đường về Huyền Trang có ghé qua Cao Xương thực, nhưng Khúc Văn Thái đã chết, nước Cao Xương đã biến mất. Chiến tranh và tham vọng của nhà Hán đã thôn tính Cao Xương.

Khách ngậm ngùi thắp một nén hương Việt Nam nơi vị trí được xem là chỗ Huyền Trang từng đăng đàn thuyết giảng. Khách nhìn mặt đất đầy cát, cố tìm lại dấu giày của Huyền Trang. Ngày xưa Cao Xương được xây dựng như một Trường An thứ hai, nay chỉ còn là phế tích. Xung quanh là sa mạc, chỉ có xe ngựa chở ít ỏi khách du lịch vào thăm Cao Xương cổ thành. Hướng dẫn viên cho khách là một cô gái người Uygur, cô kể lại cuộc đời hành hương của Huyền Trang và hãnh diện cho hay người Uygur vùng này chính là hậu duệ của vương quốc Cao Xương.

Cao Xương đã biến thành cát bụi như nhiều tiểu quốc khác trong sa mạc Gobi và các nơi khác của vùng Trung Á. Cả Ngọc Môn quan cũng theo thời gian mà đổ nát. Ngày nay du khách chỉ đến thăm Gia Dụ quan vì tòa thành lũy này mới xây về sau, hùng vĩ hơn nhiều. Họ không biết đến một Ngọc Môn quan từng làm nao lòng biết bao con người lúc phải đi qua. Thời gian, chiến tranh và sự biến đổi của khí hậu đã cho biến mất những khu rừng xanh tươi, đã làm khô kiệt những sông hồ, đã xóa bỏ nhiều ốc đảo, đã lấp đi những dấu tích xưa cũ và nhất là đã chôn vùi các nền văn hoá cổ.

Nhưng còn có một vài người đã giữ vững và trao truyền cho hậu thế các nền văn hóa đó. May thay Huyền Trang không bỏ mình tại Ngọc Môn quan. Nếu lịch sử vắng ông, nền văn hóa Phật giáo tại miền Đông Á hẳn không có diện mạo của ngày hôm nay và lữ khách cũng thiếu đi một niềm cảm khái bất tận.

12.2006 Nguyễn Tường Bách

Chỉ nhận tên tuổi Khúc gia, không nhận mặt Khúc gia

Edit: Rùa

Tháng bảy, Đôn Hoàng.

Do việc sửa chữa đường, toàn bộ tuyến đường lạc đà hoang dã đến khu nam Ngọc Môn quan, cát bụi đầy trời

Chỉ cách xa quốc lộ một vài mét, là một con đường đất được đầm nén bởi một cái máy. Đường đi chật hẹp, không ít người cùng xe vận chuyển đồ bị kẹt lại, kéo dài mấy km.

Chính giữa trưa, thời điểm ánh mặt trời chói nhất.

Điều hòa bên trong xe đã bật đến mức mát nhất, nhưng dưới ánh nắng này như cũ không có cách áp đi cái nóng.

Khúc Nhất Huyền lấy bình giữ ấm uống miếng nước, ánh nhìn trầm tĩnh mà xuyên thấu qua cửa kính xe, nhìn thoáng qua một tầng cát vàng tràn ngập phía bên ngoài.

Cuối hoang mạc mông lung, hình như có một ốc đảo nhỏ bao trùm.

Nhưng chỉ có người đi đến đây hàng năm mới biết, cuối hoang mạc vẫn chỉ là hoang mạc.

Khúc Nhất Huyền liếm liếm môi, cầm lấy di động dò tín hiệu, cột tín hiệu gần như đã không còn hiện lên chút sóng nào, khi có khi mất.

Nhàn rỗi đến nhàm chán, cô lục tung túi đồ, rơi ra một cái bút lông. Không tìm được giấy, chỉ có thể chọn tờ danh thiếp đã ố vàng, bắt đầu ghi chép lại tổn thất của lần kẹt xe này.

Cô dừng bút một chút, ghét bỏ mà liếc mắt ngoài cửa sổ xe chỉ toàn cát vàng.

Đến, còn phải tính tiền rửa xe.

Một mặt liệt kê không xong, cô nhìn đến chính diện, vừa muốn hạ bút, lại hơi định thần, cẩn thận mà nhìn tờ danh thiếp này.

Danh thiếp đã ố vàng hiển nhiên đã rất lâu rồi, mặt trước danh thiếp nhìn khá cũ, còn có vết giống như bị ngọn lửa liếm qua một góc làm nó cuốn lên. Vết bẩn kia một đường kéo dài đến tên lạc khoản, sớm đã không nhìn rõ tên trên danh thiếp. Điều nhìn rõ duy nhất, chỉ có số di động phía dưới lạc khoản.

Nhìn... Thế quái nào cảm thấy quen mắt.

Không đợi cô nhớ lại, cửa sổ đã bị đập hai cái, một lớp cát vàng trên cửa xe lập tức hiện ra dấu nắm tay.

Bên cạnh xe có một người điều khiển giao thông đang đứng, xuyên qua dấu tay kia nhìn về phía Khúc Nhất Huyên trong xe, thúc dục cô chạy xe đuổi kịp xe trước, mau chóng thông qua đoạn đường bị tắc này.

Khúc Nhất Huyên kéo chân ga, khởi động xe, lốp xe nghiền xuống mặt đất, bị xe móc kéo tới đoạn đường đất gập ghềnh mấy chục mét.

Sau đó xe dừng lại, đổ đến không thể động đậy.

Cũng may tín hiệu đã có, cô vừa mới kéo tay lên đã nghe di động đổ chuông. Cô liếc mắt nhìn tên trên màn hình, thuận tay tiếp may.

Viên Dã gọi mười mấy cuộc điện thoại rốt cuộc cũng gọi được một lần, lòng dạ không yên, giọng cũng trở nên khẩn trương: "Khúc gia, cô còn ở trên đường sao?"

"Còn ở." Khúc Nhất Huyền lười biếng mà xốc lại mi mắt, đổi sang tay trái tiếp điện thoại.

"Tôi nói chuyện này cho cô," Viên Dã nói, ngữ khí nghiêm túc hẳn lên, "Hôm nay Hứa tam mang đến một người khách, đi đến Ngọc Môn Quan. Trên đường không phải kẹt xe sao? Vị khách đó không muốn chờ, xuống xe tự mình đi qua."

Khúc Nhất Huyền nhíu mày, ngồi thẳng dậy: "Chuyện khi nào?"

Viên Dã: "Mấy giờ trước."

Dường như ngừng lại vài giây, thanh âm bỗng nhiên bị đè thấp lại: "Hứa tam vốn dĩ không đồng ý, nhưng ông ta cũng chỉ là người lái xe, không có quyền ngăn cản khách không cho xuống xe. Nhưng là rốt cuộc cũng không yên tâm, ông ta đưa cho vị khách đó một chiếc điện thoại, có việc gì lập tức gọi cho ông ta. Mới vừa rồi..."

Ấn đường Khúc Nhất Huyền giật giật, cô nhìn Mặt Trời, thầm mắng một câu "Thật mẹ nó, thằng nhãi này đúng là tự đi tìm chết."

Viên Dã cách điện thoại cũng có thể cảm nhận được Khúc Nhất Huyền đang tức giận, nội tâm không nhịn được mà run lên, vội nói tiếp "Sau khi Hứa tam nhận được điện thoại, lập tức báo nguy. Bên kia cảnh sát đã phái cứu viện. Nhưng tôi nghĩ, người đã ở hoang mạc mấy giờ rồi, nước cũng không đủ để uống, cứu viện này dù đến được phỏng chừng cũng không kịp. Cô vừa hay đang ở trên đường, lưu ý giúp một chút."

Khúc Nhất Huyền không lên tiếng, ánh mắt ước lượng độ cao sườn dốc cùng sàn xe, đường quá hẹp, khi cô đi đến nhất định phải buông lỏng phanh, xe đi qua sườn dốc, nhảy thẳng vào khu đất hoang bên đường quốc lộ.

Cô vừa thoát khỏi quốc lộ, người điều khiển giao thông trông coi bên đường liền giơ lên biển cấm, hướng cô cuống cuồng thổi còi.

Tiếng còi sắc nhọn, cách tiếng gió cùng cửa sổ cũng có thể nghe rõ.

Viên Dã cũng có thể nghe thấy, anh ta ngừng một chút, thử thăm dò hỏi "Khúc gia?"

Khúc Nhất Huyền cúi người, từ ngăn đồ lấy ra thẻ công tác của đội cứu viện Ánh Sao, bấm nút cho cửa xe hạ xuống, nói nhanh: "Hứa ta tam có ở bên cạnh cậu không, đưa điện thoại cho ông ta."

Vừa dứt lời, cô thò nửa người ra ngoài cửa sổ, hướng người điều khiển giao thông giơ lên thẻ công tác, "Sư phó, thời gian cấp bách, châm chước cho tôi một chút."

Đội cứu viện Ánh Sao ở đường vành đai Tây Bắc uy danh hiển hách, mấy năm nay cùng với cảnh sát tham gia vô số vụ cứu viện lớn nhỏ. Logo của đội rất nổi tiếng, cho dù là đứa trẻ ba tuổi cũng có thể nhận biết.

Điều khiển viên nửa tin nửa ngờ mà nhìn mắt cô, trong tay cầm thẻ công tác, ấn đường lộ vẻ khẩn trương.

Khúc Nhất Huyền?

Anh ta chỉ biết ở đường vòng Tây Bắc có một Khúc gia...

Anh ta híp mắt, cẩn thận nhìn cô bằng ánh mắt thăm dò, liếm liếm môi, hỏi "Cô ở đội cứu viện trên đường vòng?"

Khúc Nhất Huyền khẽ cười một tiếng "Phải"

Điều khiển viên híp mắt "Cô cũng họ Khúc?"

Cũng?

Nụ cười của Khúc Huyền hơi cứng lại, vô số lần vì tên của mình mà đính chính lại "Thương mang đội ở đường vòng, chỉ có một người họ Khúc."

Cô chỉ chỉ chính mình "Chính là tôi, nữ."

Chờ đến khi ngồi trở lại trong xe, Viên Dã không nể tình mà cười nhạo: "Đường vòng Tây Bắc, mọi người chỉ biết đến tên tuổi Khúc gia, không biết được ai mới là Khúc gia này. Càng đừng nói đến cô, dọn ra ngoài cũng chỉ nhận [ 5 năm thi đại học, 3 năm làm bài thi] ( bản gốc là 五年高考三年模拟, nên mình cũng không biết edit thế nào nữa)."

Không đợi Khúc Nhất Huyền phát tác, chắc hẳn Viễn Dã sợ bị mắng nên chạy nhanh đưa điện thoại cho Hứa tam "Mau mau mau, đừng chậm trễ chính sự, cùng [5 năm thi đại học, 3 năm làm bài thi] nói xem rốt cuộc sao lại thế này."

Ấu trĩ!

Khúc Nhất Huyền không hé răng, chỉ trợn trắng mắt.

Hứa tam tiếp nhận điện thoại, nhẹ hắng giọng, nghe được tiếng Khúc Nhất Huyền đáp lại mới nói "Vị khách kia họ Tuân, hai mươi lăm tuổi, là nghiên cứu sinh mới tốt nghiệp, cao khoảng 1m75. Mặc áo gió màu lam, đeo balo quân dụng mà xanh. Lúc tôi đưa cậu ta đến nửa đường, cậu ta hỏi tôi có con đường nào có thể đi đến Ngọc Môn Quan cùng thành ma quỷ Nhã Đan."

"Điểm du lịch Đôn Hoàn chưa thấy qua đều giống nhau, tôi nào biết bên trong có cái gì ma quỷ. Tôi liền nói có thể giúp cậu ta liên hệ công ty dy lịch sẽ được giảm 10%. Cậu ta ngại tốn tiền, tính toán vòng qua cổng soát vé, trốn vé đi vào. Hơn nữa trên đường lại kẹt xe, khi sắp đến Ngọc Môn Quan, cậu ta liền xuống xe tự mình đi qua đường. Cuối cùng lúc tôi nhận được điện thoại của cậu ta, cậu ta nói không có nước, không có biện pháp nhận ra phương hướng trong hoang mạc, lạc đường. Chờ khi tôi báo cho cảnh sát, gọi lại cho cậu ta thì di động đã tắt máy, tôi đoán điện thoại hết pin..."

"Trốn vé?" Khúc Nhất Huyền không lên tiếng, Viên Dã nghe được đã lên tiếng "Vì một chút tiền vé, liền cả mạng cũng không cần?"

Khúc Nhất Huyền cười nhạo một tiếng, tựa trào phúng: "Loại khách balo tự cho là thông minh đi một mình như này mỗi năm còn thiếu sao?"

Viên Dã bị nghẹn một chút, giọng điệu có phần không xác định, lên tiếng: "Không đến mức chứ..." Những người này rốt cuộc trong đầu chứa cái gì?

Hứa tam cũng thở dài: "Cậu ta nói chính mình có kinh nghiệm, năm nay đi đường vòng Tây Bắc là vì muốn thăm dò đường. Dựa theo kế hoạch của cậu ta, cuối cùng sẽ vượt qua Kim Sơn rồi đi Thanh Hải."

Đường đất cũng không đi tốt, bánh xe nghiền đá vụn đạp lên sàn xe, một đường xóc nảy cũng những tiếng đập nhỏ vang lên.

Khúc Nhất Huyền thả chậm tốc độ, nghiêng đầu nhìn ánh nắng "Từ Đôn Hoàn đến Ngọc Môn Quan hơn 100km, dưới tình huống giao thông tốt cũng mất hơn 1 giờ. Càng miễn bàn đến việc cậu ta lạc đường ở hoang mạc, không có cách nào xác định vị trí, chờ cứu viện ở Đôn Hoàng chạy tới, thần tiên cũng khó cứu."

Nói tới cứu viện, Viên Dã một lần nữa tiếp tục hỏi: "Tôi muốn hỏi một chút, trong đội còn ai ở gần Ngọc Môn Quan không?"

Khúc Nhất Huyền không tỏ ý kiến.

Xuất phát từ Đôn Hoàng, đi qua những tàn tích của Vạn Lý trường thành và Ngọc Môn quan, đến đường vành đai của thành phố quỷ Nhã Đan, cô không biết có nhiều thay đổi không, nhưng nhắm mắt lại cũng có thể đi qua.

Ngọc môn quan là một con đèo nằm ở phía tây Đôn Hoàng, có mộ ốc đảo nhỏ. Vạn lý trường thành xây từ thời nhà Hán cách ốc đảo này không đến mười km, đi theo hướng tây mười km là có thể đến cuối đèo. Nơi đây có hình dáng lòng chảo, khô cạn, cát vàng trải dài như lòng sông, mọi nơi đều bị phong hóa.

Trước mắt chỉ toàn sa mạc với sa mạc.

Mà thành quỷ Nhã Đan ở sườn phía tây của thung lũng, lộ trình ước chừng 50km.

Tháng Bảy tuy không phải mùa cát, nhưng chỉ cần gió nhẹ liền có thể thổi cát bay đầy trời. Bất luận là dấu chân, manh mối gì, ở trong gió cát trước mặt, liền bị cuốn đi như giọt nước trong biển khơi, chỉ một khoảnh khắc liền không thấy bóng dáng.

Một khi cậu ta từ nơi này lệch khỏi qũy đạo đường đi đã đề ra, liền rất khó tìm lại tung tích.

Khúc Nhất Huyền đeo thẻ công tác lên cổ, thấp giọng nói: "Tôi đi trước tìm xem, nhưng Viên Dã..."

"Chỉ dựa vào đoàn xe, tìm không tốt lắm."

Âm thanh của cô vừa lạnh lùng vừa nghiêm túc, Viên Dã nhất thời im lặng, không nói được lời nào.

Ở hoang mạc tìm một người đi lạc, không khác gì mò kim đáy biển.

Đạo lý này, anh ta biết.

Khúc Nhất Huyền đã thoát ra khỏi đoạn đường bị kẹt, cô đánh xe vòng sang trái, xe việt dã (Bản gốc là 巡洋舰 nghĩa là tuần dương hạm, tra google thì ra tàu chiến trên biển nên mình tự sửa thành xe việt dã, tàu chiến mà đi trên xa mạc khác gì heo mẹ biết leo cây) lập tức lao nhanh, trên đường núi sỏi đá bị hất lên theo đường đi của xe.

Cô nhếch mắt, từ kính chiếu hậu nhìn ra phía sau.

Sau xe đá cát bụi mù, từ phía sau xe có thể thấy được mơ hồ dòng xe cô vẫn thể động đậy được, một đường xe thật dài.

Nơi kẹt xe rất gần Ngọc Môn quan, không mất nhiều thời gian, Khúc Nhất Huyền đã đến cảnh khu.

Thành cổ Tiểu Phương ở Ngọc Môn quan có đài ngắm cảnh, được xây dựng trên sườn dốc, đứng trên đó, mắt thường có thể nhìn thấy phía trước có đồng cỏ và đầm lầy.

Đồng cỏ ở sâu trong lòng chảo, càng đi xa càng khó phân biệt.

Khúc Nhất Huyền có biện pháp để nhận biết phương hướng, dọc theo ngoài thành Ngọc Môn quan một vòng. Cô đi rất chậm, vừa đi vừa chú ý xem trên mặt đất có dấu chân người hay không.

Dấu chân không giống vết bánh xe, rõ ràng khắc sâu, trong chốc lát gió cát không thể che dấu luôn được.

Thiếu niên trẻ tuổii dấu chân khoảng bốn mươi centimet., mặc dù hoa văn ở đế giày thể thao sâu, nhưng cho dù là người nặng hai trăm cân đi ở ngoài Ngọc Môn quan thì không đến mấy phút cũng sẽ bị gió cát che lấp.

Nhưng không đi xem thử một lần, Khúc Nhất Huyên không cam lòng.

Đến hướng Tây, cát vàng lẫn với sỏi đá, hạt cát thô to càng khó để lại dấu vết.

Khúc Nhất Huyền đi xong một vòng, không ở lại lãng phí thời gian, đi đến lòng chảo tây hành, hướng thành ma quỷ Nhã Đan bắt đầu tìm kiếm.

Trước khi xuất phát, cô kiểm tra xăng xe và tính toán con đường cần đi, nạp điện thoại, nhắn cho Viên Dã một tin "Tôi đến hướng tây Ngọc Môn quan tìm kiếm, xăng chỉ đủ dùng khoảng năm trăm km, trước khi mặt trời lặn cần đổ thêm."
Bạn có thể dùng phím mũi tên trái/phải để lùi/sang chương.
Bạn chấm truyện được mấy điểm!
loading...
DMCA.com Protection Status