Thư kiếm ân cừu lục

Chương 2: Hồng hoa hội quyết tôn thiếu đà chủ - tiêu thanh đồng thề đoạt khả lan kinh



Lý Mộng Ngọc nghe tiếng truyền rao ấy mười phần kỳ quái. Nàng không hiểu chuyện gì, hốt hoảng hỏi Lục Phỉ Thanh :

- Sư phụ à! Đó là cái gì vậy? Con nghe lạ quá!

Lục Phỉ Thanh đáp :

- Đó là tiếng truyền rao của những kẻ hướng đạo cho một tiêu cục. Mỗi tiêu cục đều có những kẻ đi trước truyền tin như vậy, nhằm mục đích báo trước cho các đảng lục lâm đừng đánh bậy mà lầm, đồng thời cũng là để rao cùng bạn đồng đạo rõ nếu cần thì ủng hộ. Tiêu cục phụ trách việc chuyên chở, bảo vệ hàng hóa, vàng bạc, hay tất cả những thứ gì quý giá mà người mướn giao phó cho đến nơi đến chốn an toàn và “giao hàng tận tay”. Làm nghề bảo tiêu này thì phải có bảy phần cảm tình với giới lục lâm và đồng đạo giang hồ, còn ba phần còn lại phải có bản lãnh tuyệt vời cao siêu vì đôi khi không còn đường thương thuyết thì chỉ còn cách phải giải quyết bằng quyền cước hay đao kiếm mà thôi. Người thủ lãnh của một tiêu cục phải là một người có uy danh lừng lẫy trên chốn giang hồ; phải có sự giao du rộng rãi, phải độ lượng khoan dung; phải nắm vững hết được tình hình trong các vùng lân cận, từng nẻo giao thông, từng địa hình địa vật; và phải có nhiều người bản lãnh cao cường dưới trướng. Nếu không có đủ những điều kiện cốt yếu ấy mà, ở tiêu cục càn bừa thì sẽ bị cướp hết hàng bảo tiêu, hại chết người và không chừng còn tự hại lấy bản thân mình nữa. Tiêu cục mỗi lần lãnh hàng bảo tiêu cho ai thì được hưởng hoa hồng lớn lắm. Có như vậy mới đủ chi cho các sở phí nặng nề. Mỗi lần nghe truyền ra như thế, các đảng lục lâm cũng như các giang hồ đồng đạo đều hiểu rõ tiêu cục đó từ đâu đến, thủ lãnh là ai rồi. Trường hợp các đám lục lâm có ý định cướp tiêu mà nghe những tiếng rao này thì họ sẽ cho cả đoàn bảo tiêu đi qua nếu quen với tiêu đầu hoặc tự lượng sức mình không thể cướp nổi. Nếu thấy lạ, họ sẽ đuổi những tên truyền rao đó trở lại mà không cho qua. Sau đó người của tiêu cục phải tìm cách dàn xếp. Nếu chủ trương ôn hòa, nghĩa là được đám lục lâm sợ sệt hay thông cảm, hoặc giả phải chi cho họ một ít tiền tài gọi là “mãi lộ” thì mọi chuyện sẽ êm đẹp, không có gì xảy ra. Nhưng nếu giải quyết bằng lời không xong thì tiêu cục chỉ còn một đường cuối cùng là chiến đấu đến tận cùng để vượt đường đi qua mà thôi. Có nhiều trường hợp tiêu cục chiến thắng nhưng cũng có nhiều khi “tiêu mất người chết”.

Lý Mộng Ngọc thầm cảm tạ thầy đã dạy cho nàng ít nhiều kiến thức để mở rộng thêm tầm mắt cho nàng. Nhưng tánh hiếu động của Mộng Ngọc lại nổi dậy mặc dầu mới bị một vố khóc sưót mướt, mắt chưa ráo lệ. Nàng cười thầm trong bụng nghĩ :

- “Hay là mình thử cản đám người bảo tiêu này chơi cho vui. Chúng nào biết mình là ai đâu mà sợ.”

Tuy nghĩ vậy nhưng còn sợ thầy không cho, với lại chưa biết đám bảo tiêu đó bản lãnh, thế lực ra sao nên Lý Mộng Ngọc hòi dò Lục Phỉ Thanh :

- Sư phụ! Tiêu cục này do ai lãnh đạo vậy?

Lục Phỉ Thanh đáp :

- Đó là Trấn Viễn tiêu cục, trụ sở chính nằm tại Bắc Kinh. Ngoài ra cũng còn những chi nhánh khác ở các nơi như Phụng Thiên, Tế Nam, Khai Phong, Thái Nguyên... Tổng tiêu đầu, tức là người cầm đầu tất cả trụ sở chính lẫn các chi nhánh tên là Vương Duy Dương mà giới giang hồ đặt cho danh hiệu là Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương. Đến nay, y đã gần 70 rồi nhưng vẫn còn oai phong lẫm liệt. Các đảng lục lâm hay các đồng đạo hễ nghe ra truyền “phái võ Duy Dương” thì không ai dám gây sự hay làm trở ngại điều gì. Nhờ vậy mà Trấn Viễn tiêu cục phồn thịnh vô cùng. Đáng lẽ ra, đến tuổi này Vương Duy Dương nên cáo lão về núi sống vui cùng “nước trí non nhân” chứ còn ham lợi lộc thêm chi nữa! Huốn hồ hơn 40 năm mở ra Trấn Viễn tiêu cục làm ăn, lão đã thâu của thiên hạ không biết bao nhiêu mà kể! Không hiểu sao lão còn chưa cho là đủ?

Lý Mộng Ngọc hỏi :

- Sư phụ, thầy có quen với Vương tổng tiêu đầu à?

Lục Phỉ Thanh đáp :

- Thầy từng tỉ thí với Vương Duy Dương về cả võ công lẫn kiếm thuật. Lão ta có môn tuyệt kỹ là Bát Quái chưởng và chuyên sử dụng một cây Bát Quái đao. Suốt bao năm trời tung hoành ngang dọc suốt miền Giang Bắc chưa tìm được địch thủ nào xứng tay. Do đó lão ta tự nhận và rất hãnh diện với danh hiệu “Uy Chấn Hà Sóc”.

Lý Mộng Ngọc cao hứng hỏi thêm :

- Lòng con thật hâm mộ vị lão anh hùng ấy. Sư phụ có thể dắt con đến ra mắt ông ta được chăng?

Lục Phỉ Thanh lắc đầu nói :

- Khó lắm! Vương Duy Dương chẳng bao giờ chịu gặp ai nếu không có điều gì mà lão cho là “tối cần”, hay không có điều gì lợi cho lão ta. Đối với đám hậu bối trẻ tuổi, lão ta lại càng không muốn tiếp!

Càng nghe sư phụ chỉ dạy từng ly từng tí, Lý Mộng Ngọc càng nhận thấy giang hồ quả là phức tạp, mà bẳn thân mình chẳng khác nào người mù đi dò trong đêm tối. Nàng bỗng nảy sinh ra một mối nghi ngờ, tự nhủ thầm :

- Mình không đánh cướp của người ta, nhưng biết đâu người ta lại đánh cướp tài sản của mình? Chi bằng cứ đề phòng trước vẫn hay hơn.

Nghĩ đoạn, Lý Mộng Ngọc giơ roi quất vào con ngựa nàng cỡi một cái, con vật chồm tới phi nước đại chạy thẳng lên bắt kịp, đi ngang với đoàn xa kiệu. Lý Mộng Ngọc chạy đến kiệu của Lý phu nhân hỏi thăm. Nhìn thấy ngựa của con gái đang cỡi, Lý phu nhân không sao nín được cười.

Lý Mộng Ngọc ngạc nhiên không hiểu vì sao mẹ lại cười. Nàng hỏi thì mẹ nàng hỏi rằng :

- Cái đuôi ngựa của con đâu rồi?

Lý Mộng Ngọc nghe hỏi sững sờ bèn quay đầu lại ngó, và chợt nhớ ra đuôi con ngựa của mình bị người có bướu xén mất trở thành “ngựa cụt đuôi”. Nhưng hình như suy được điều, Lý Mộng Ngọc không khỏi kinh ngạc tự nhủ thầm :

- Dùng bàn tay chặt gẫy cây thương hay cây mâu cũng chẳng có gì là lạ. Cái đuôi con ngựa mềm như thế mà hắn dùng tay “xén” được thì cũng lạ!

Lý Mộng Ngọc lại kềm ngựa lại định chờ sư phụ Lục Phỉ Thanh đến để hỏi cho chắc ăn, nhưng nghĩ lại thêm mắc cở với thầy nên lại ra roi quất ngựa chạy lên nhập vào toán dẫn đầu đoàn xa kiệu. Vừa trông thấy Tham tướng Tăng Đồ Nam, nàng hỏi ngay :

- Tăng tham tướng! Chẳng hiểu sao con ngựa của tôi lại rụng mất cái đuôi trông xấu xí quá!

Nhìn Lý Mộng Ngọc thở ra não nuột cùng với gương mặt buồn thỉu buồn thiu của nàng, Tăng Đồ Nam hiểu ngay ý của con gái chủ tướng mình muốn gì. Ông ta liền thưa :

- Con chiến mã của tôi đây thuộc giống thần mã, vừa được chủ tướng cho để đỡ chân. Ác nghiệt thay, nó lại có tật sa tiền mà tôi chưa trị được! Nghe nói tiểu thư có tài cỡi ngựa giỏi lắm, vậy tôi sẵn sàng tạm đổi ngựa cho tiểu thư. Chẳng hay tiểu thư nghĩ sao?

Lý Mộng Ngọc được Tăng Đồ Nam khen giỏi, lại sẵn sàng chịu đổi ngựa cho thì trong bụng mừng rỡ vô cùng. Nàng nói :

- Tham tướng có lòng như vậy thì thật quý hóa thay. Con tuấn mã của tôi đây cũng thuộc loại ngựa quý hiếm có. Bất quá nó chỉ bị rụng mất cái đuôi nên hơi khó coi chút thôi!

Hai người đổi ngự cho nhau xong, Tăng Đồ Nam phi ngựa chạy trước. Lý Mộng Ngọc ở đàng sau nhìn tới không nhịn được, phải ôm bụng mà cười. Tăng Đồ Nam quay lại nói :

- Cỡi con ngựa không đuôi thấy chương chướng làm sao ấy! Thế nào tôi cũng phải tìm cách ráp cho nó một cái đuôi giả coi mới được.

Đang khi ấy, tiếng rao truyền của Trấn Viễn tiêu cục mỗi lúc mỗi gần. Không đầy mấy khắc, một đoàn trên 20 cỗ xe tứ mã cùng đi tới một lượt, không biết chuyên chở gì mà trông rất nặng nề. Xe nào xe nấy đều phủ vải dầu kín mít.

Lục Phỉ Thanh sợ trong đám này có người nhận ra mình nên xoay lưng day lại, kéo nón lá phủ xuống nửa mặt, khẽ liếc nhìn vào người tổng tiêu sư đang cỡi ngựa đi ngang qua. Ông ta cố giữ nét bình thản như một người khách đi đường, không để ý đến ai cả, chợt nghe tiếng một tiêu sư nói với đồng bọn rằng :

- Tôi nghe Hàn đại ca nói lại thì Tiêu Văn Kỳ tam ca không biết mất tích nơi nào mà tìm không thấy đâu cả.

Lục Phỉ Thanh giật mình kinh hãi, quay đầu lại nhìn thử hình dáng người tiêu sư ấy. Hắn có một hàm râu bạc rậm rạp, đôi mắt sáng quắc như diều hâu, tướng mạo cực kỳ hung ác. Lục Phỉ Thanh cố ghì ngựa lại một vài giây để cho hắn vượt qua. Nhìn phía sau lưng, ông ta thấy hắn có mang trên vai một chiếc hầu bao màu hồng, bên hông hắn đeo một thứ binh khí rất kỳ quặc của một môn phái ngoại gia tên gọi Ngũ Hành luân. Lục Phỉ Thanh nghĩ thầm trong bụng :

- “Hay là nhóm Quảng Đông lục ma gia nhập vào Trấn Viễn tiêu cục làm tiêu sư cả rồi cũng nên!”

Nhóm Quảng Đông lục ma nổi tiếng là người nào cũng võ nghệ trác tuyệt. Con ma thứ năm là Diêm Khôi và con ma thứ sáu là Diêm Thế Chương cùng dùng một thứ binh khí giống nhau là Ngũ Hành luân. Bọn này vốn gốc từ thiếu lâm tách ra.

Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ chuyến này mới ra ngoài có mấy ngày mà đã gặp không biết bao nhiêu là cao thủ võ lâm rồi. Nếu họ là đều là người của triều đình mật phái theo dõi mình thì thật là “lành ít dữ nhiều”.

Càng nghĩ, Lục Phỉ Thanh càng lo. Càng lo, ông ta càng cẩn thận đề phòng và quan sát tinh tế hơn. Nhưng suy đi tính lại, rốt cuộc vẫn thấy không ổn.

Lục Phỉ Thanh nghĩ thầm :

- “Nếu chỉ có một mình ta thì có phải lẩn tránh thì thật không khó lắm, nhưng ngặt vì theo bên còn có một đứa học trò liếng thoắng, hay sinh sự không đâu. E rằng đại họa trước sau khó mà tránh được!”

Nhưng rồi ông ta lại nghĩ :

- “Mà chắc không phải bọn ấy theo dõi gì ta đâu. Chúng hẳn có việc cấp bách nào khác. Như Triệu Bán Sơn là bạn chí thiết của ta mà cũng có mặt trong đám cao thủ ấy thì lấy tình mà xét, chẳng lẽ lại giết hại ta sao?”

Lục Phỉ Thanh cho rằng giả điều suy luận sau cùng là hữu lý nhất nên cũng thấy có đôi phần hơi yên tâm.

Lý Mộng Ngọc đang cỡi ngựa đi song song với Tăng Đồ Nam, thấy sư phụ đã đến gần liền cười nói ông :

- Sư phụ à! Hôm nay sao chưa gặp ai cả? Chả bù với hôm qua, mở mắt ra là đụng đầu luôn một hơi năm cao thủ phi ngựa tiến về hướng Tây. Ngựa của họ phi nhanh đến độ bay luôn cái đuôi ngựa của Tăng tham tướng! Thầy xem có lạ không?

Lục Phỉ Thanh cười nói :

- Có như vậy con mới tỉnh ngộ được phần nào cũng như dằn bớt cái tính tự cao tự đại xuống. Dùng bàn tay mà chặt đứt đuôi ngựa như xén tóc thì bản lãnh người ấy đã đến mức siêu đẳng rồi. Nhưng bây giờ con nhắc lại năm người có bản lãnh hôm qua phi ngựa về hướng Tây thầy mới sực nhớ ra. Chỉ vì lộn hồn lộn vía mà thầy quên mất chuyện “thiên lý tiếp long đầu”!

Lục Phỉ Thanh từng trải giang hồ rất nhiều nên thông thường mọi chuyện chỉ cần trông phớt qua là hiểu ngay. Chỉ vì ông ta mải lo tính cho việc riêng của mình nên không còn đầu óc nào để suy nghĩ đến việc khác.

Lý Mộng Ngọc hỏi :

- Sư phụ giải thích cho con nghe “thiên lý long đầu” là gì vậy? Con hoàn toàn không hiểu!

Lục Phỉ Thanh từ từ cắt nghĩa :

- Đó là một nghi lễ long trọng nhất của các bang hội trong giang hồ khi đón tiếp một nhân vật “tối quan trọng”, thường là một lãnh tụ, có thể là Chưởng môn nhân hay là Bang chủ, bảo chủ gì đó. Bình thường, đi đón rước một nhân vật được xem là quan trọng trong môn phái hay bang hội thôi đã phải huy động đến sáu người, theo thể thức một người nối đuôi một người mà đi, trước sau cho đủ sáu người. Nhưng nếu đón rước một người “tối quan trọng” thì con số đó tăng lên gấp đôi, phải từng cặp một nối tiếp nhau thay vì từng người một, cho đến khi đủ sáu cặp thì thôi. Chúng ta đã thấy tất cả năm cặp đi ngang qua rồi, thế nào cũng phải còn một cặp nữa. Và người nào chắc hẳn là một lãnh tụ của một môn phái hay một bang hội nào đó.

Lý Mộng Ngọc hỏi tiếp :

- Sư phụ có thể đoán được họ thuộc về môn phái hay bang hội nào không?

Lục Phỉ Thanh lắc đầu nói :

- Thầy cũng chưa biết rõ được. Nhưng có điều con phải nghe lời thầy căn dặn là từ nay về sau nhất nhất không được chọc ghẹo bất cứ ai nữa mà rước họa vào thân như không đấy! Con đã nhìn thấy Tây Xuyên song hiệp và được chứng kiến bản lãnh của “người có bướu” thế nào rồi. Chứng tỏ đây là một môn phái hay là một bang hội lớn, rất có thế lực và có nhiều cao thủ võ nghệ tuyệt luân chứ không phải là một hội phái tầm thường đâu.

Lý Mộng Ngọc cúi đầu không đáp, nhưng trong lòng không mấy gì vui. Lục Phỉ Thanh đang trông chờ một cặp nữa đi về hướng tây cho đủ sáu cặp theo nghi tiết “thiên lý long đầu” mà ông ta tiên đoán. Đột nhiên, tai Lục Phỉ Thanh nghe rõ ràng có tiếng vó ngựa đâu đâu nhưng mắt thì lại chẳng trông thấy gì. Ông ta nghĩ thầm :

- Đằng trước chẳng trông thấy gì cả. Hay là tiếng vó ngựa vang lại từ phía sau?

Lục Phỉ Thanh quay lại vẫn không thấy người hay ngựa ở đâu, nhưng lại có tiếng rổn rảng như là tiếng lục lạc từ cổ lạc đà thì đúng hơn. Chỉ trong chốc lát, phía sau cát bụi tung lên mịt mù, và Lục Phỉ Thanh trông rõ ràng là một đoàn người, hình như là một đám khách thương rất đông từ vùng sa mạc đi tới. Cả Lục Phỉ Thanh lẫn Lý Mộng Ngọc đều nới cương ngựa chậm lại từ từ chờ đợi, chẳng chút vội vã hay gấp rút.

Không bao lâu, đoàn khách thương đã đến gần. Đoài người gồm 14 con lạc đà và vài chục con ngựa. Người cỡi lạc đà là người Duy, một dân tộc thiểu số ở phí Bắc sa mạc Tây Bá Lợi Á. Người Duy mũi cao, mắt nâu, cằm rộng, râu nhiều rậm rạp, đầu vấn một giải khăn làm bằng vải trắng. Có lẽ họ từ xứ Hồi vào đây để buôn bán.

Hồi còn ở ngoài biên cương, Lục Phỉ Thanh đã từng gặp khách thương người Duy nhiều lần rồi nên không lấy gì làm lạ và thấy chẳn có gì phải để ý. Nhưng bỗng nhiên trước mắt Lục Phỉ Thanh tỏa ra những tia sáng long lanh. Một thiếu nữ mặc áo vàng ngồi trên lưng một con bạch mã lông trắng như tuyết phi như bay, xẹt qua ngang hông Lục Phỉ Thanh như một mũi phi tiêu. Trông nàng như một dáng tiên nga, phục sức hoa lệ, khí vũ hiên ngang. Trên đầu nàng đội một cái mão. Trên mão có một cặp lông trĩ màu sắc huy hoàng cắm cao lên. Trông nàng thật là xinh đẹp, vừa thùy mị khả ái. Thật là một đóa kỳ hoa của vùng sa mạc.

Lục Phỉ Thanh nhìn thiếu nữ với cặp mắt đầy ngưỡng mộ, thầm khen rằng không biết tại sao trong thiên hạ lại có được một người đẹp đến thế này.

Còn Lý Mộng Ngọc khi trông thấy dung nhan kiều diễm của thiếu nữ người Duy ấy cũng phải bần thần trố mắt nhìn. Từ lúc sinh trưởng trong vùng biên ải phía Tây bắc cho đến lúc trưởng thành, nàng chưa từng được thấy qua một cô gái nào có vẻ đẹp mơ mộng, hồn nhiên với thân hình “quỳnh dao ngọc thụ” và trang sức dũng điệu đến thế. Trông nàng ta vừa như một tiên nữ lại vừa như một nữ hiệp.

Lý Mộng Ngọc cũng vốn là một thiếu nữ trâm anh khuê các, dung nhan kiều lệ tuyệt vời mà còn phải thán phục, mười phần ganh tị sắc đẹp thì đủ hiểu thiếu nữ người Duy kia có sức quyến rũ đến thế nào!

Dưới lớp “cải nam trang” thì Lý Mộng Ngọc trở thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú cho dẫu Tống Ngọc hay Phan An tái sinh cũng không thể sánh bằng.

Thiếu nữ người Duy đó trông chỉ vào khoảng độ 17 18 tuổi là cùng. Bên hông nàng đeo một con dao hơi cong cong trông thật là sắc bén, y phục một màu vàng, dệt bằng lông thiên nga, đầu đội cái mão thắt chỉ gấm vàng gọi là “kim ty tú mạo”. Hai cái lông phỉ thúy cắm trên mão khiến cho người ta tưởng tượng đến Phàn Lê Hoa trong “Tiết Đinh San Chinh Tây”. Nàng cỡi con bạch mã, yên cương làm toàn bằng bạc trắng chói ngời.

Lý Mộng Ngọc cứ nhìn mà tấm tắc khen thầm mãi, nghĩ rằng dù người đẹp trong tranh cũng còn kém xa thiếu nữ người Duy này.

Thiếu nữ người Duy thình lình bắt gặp đôi mắt một “chàng thanh niên phong lưu mỹ mạo” cứ nhìn mình chàm chặp một cách sỗ sàng khiếm lễ thì vừa thẹn, vừa tức giận. Nàng thúc ngựa vượt qua khỏi Lý Mộng Ngọc liếc mắt nhìn sang vẫn còn thấy cặp mắt say sưa của “chàng thanh niên” người Hán cứ dán chặt mãi vào mình không rời. Không dằn được cơn giận, thiếu nữ người Duy gọi lên một tiếng thật lớn :

- Gia gia!

Từ phía sau, một người đàn ông thân hình cao lớn, trông rất tráng kiện, mắt sáng, râu rậm thúc ngựa phóng lên. Thiếu nữ người Duy ra hiệu, người đàn ông ấy hiểu ý giục ngựa đến sát ngựa Lý Mộng Ngọc vỗ mạnh vào vai hỏi :

- Người bạn trẻ kia! Tại sao lại có thái độ thiếu lịch sự đối với một người con gái lạ như thế?

Lý Mộng Ngọc miệng như há hốc. Nhưng nàng quên rằng mình đang ăn mặc giả đàn ông giả nên đương nhiên cho rằng câu hỏi của người đàn ông nọ thật hết sức vô lý vì vẫn đinh ninh rằng mình với cô thiếu nữ người Duy kia đồng là phận “quần thoa” với nhau.

Thông thường thì chỉ cần một người con trai mà ngắm nhìn một người con gái chằm chặp như thế thì có thể gọi là “luân lý bại hoại” chứ chẳng cần phải có một mối quan hệ nào. Với người Hán cũng vậy, mà với người Duy cũng thế.

Trong trường hợp này, giả sử như Lý Mộng Ngọc biết mình sơ xuất mà chịu xuống nước một tí xin lỗi, dùng lời khôn khéo mà giãi bày thì chắc cũng không đến nỗi nào. Nhưng đàng này Lý Mộng Ngọc đã quen với quan cách, chỉ biết quát nạt người khác chứ có bao giờ bị ai quát nạt hay hạch sách bao giờ. Thêm vào đó, nàng lại ỷ mình có một bản lãnh cao siêu về võ nghệ nên không xem người đàn ông kia ra gì.

Lý Mộng Ngọc không thèm trả lời hay đếm xỉa tới, lại buôn tiếng cười mỉa mai, toan giục ngựa chạy thẳng. Người đàn ông giận đỏ cả mặt, râu tóc dụng ngược lên. Y đưa cánh tay gân guốc ra chụp một cái thật mạnh vào chùm lông đầu của con tuấn mã Lý Mộng Ngọc. Một chùm lông đầu của con ngựa sút hẳn ra, nằm gọn trong tay y. Sau đó, người đàn ông bèn trao chùm lông đó cho thiếu nữ người Duy.

Con ngựa của Lý Mộng Ngọc sau khi bị bứt mất một chùm lông đầu thì đau quá nhảy dựng ngược lên, thiếu chút nữa là hất Lý Mộng Ngọc rơi xuống đất. Thiếu nữ người Duy tung chùm lông đầu của ngựa Lý Mộng Ngọc lên không trung lấy roi ngựa quất vào một cái, cả chùm lông bay tán loạn, rụng tơi tả như những sợi tơ.

Lý Mộng Ngọc tức giận muốn điên tiết lên. Nàng rút ra một mũi cương tiêu nhắm hậu tâm thiếu nữ người Duy phóng một cái nhanh như điện xẹt. Vì quá tức giận nên Lý Mộng Ngọc không cần đắn đo gì cả nên mới hạ độc thủ như vậy. Mũi cương tiêu vừa ra khỏi tay, Lý Mộng Ngọc lập tức hối hận ngay vì biết tính mạng thiếu nữ người Duy có thể bị nguy hại vì ám khí của nàng. Nghĩ vậy, nàng bèn lalớn lên :

- Cô nương, mau tránh mũi cương tiêu!

Thiếu nữ nguời Duy như chẳn cần phải nhờ tới lời cảnh cáo của “chàng thanh niên người Hán” kia. Nàng bình tĩnh né sang bên mặt rồi thuận tay bắt lấy mũi cương tiêu của Lý Mộng Ngọc như lấy đồ chơi trong túi. Sau đó, thiếu nữ người Duy nhắm bụng Lý Mộng Ngọc phóng trả lại, miệng gọi lớn :

- Ta trả ám khí lại cho đó! Cất đi!

Đôi bên cách nhau chỉ chừng một trượng mà cây cương tiêu qua lại chỉ trong chớp nhoáng, mắt phàm không thể trông được. Lý Mộng Ngọc cũng lách người tránh khỏi và đưa tay bắt lại câu Cương tiêu của mình. Nàng kinh hãi, biết rằng bản lãnh thiến nữ người Duy kia không thua gì mình.

Đoàn khách thương khi sa mạc sau khi được xem màn phóng tiêu ngoạn mục giữa thiếu nữ người của bên mình cùng “chàng thanh niên người Hán” thì vỗ tay hoa hô nhiệt liệt như vừa xem xong một trò biểu diễn chứ nào hay rằng cái trò “biểu diễn” đó có thể giết chết người như không. Người đàn ông mà thiếu nữ người Duy gọi là cha có vẻ buồn buồn, không được vui. Ông ta gọi thiếu nữ nói mấy câu bằng tiếng lóng thổ ngữ riêng của họ. Chỉ thấy nàng thiếu nữ thưa rằng :

- Con xin vâng!

Nói xong, không cần nhìn Lý Mộng Ngọc, thiếu nữ người Duy giơ roi quất nhẹ vào mông con bạch mã nàng cỡi một cái nhẹ. Bốn vó tung như bay lên khỏi mặt đất, chỉ trong giây lát cả người lẫn ngựa đều mất hút.

Đoàn lạc đà và đoàng ngựa lục tục do người đàn ông cao lớn kia điều khiển lại tiếp tục lên đường. Tất cả lần lượt vượt qua kiệu của Lý thái thái rồi biến dần trong đám bụi mờ.

Lục Phỉ Thanh dừng ngụa xem tấn kịch xảy ra từ đầu chí cuối xong mới cười nói với Lý Mộng Ngọc rằng :

- Bây giờ chắc con hẳn đã tin lời thầy là “ngoài trời còn có trời, trên người còn có người” rồi chứ? Trong một ngày mà một con ngựa của con bị xén mất đuôi, còn một con thì hói mất lông đầu. Đây là một bài học con phải ghi nhớ chớ đừng nên xao lãng. Thầy xem thiếu nữ người Duy đó trạc tuổi với con nhưng tài nghệ trội hơn con đó!

Lý Mộng Ngọc cãi :

- Con thấy thiếu nữ người Duy đó tài nghệ chưa có gì lấn được con. Con phóng Cương tiêu ả bắt được, nhưng khi ả phóng trả thì con cũng bắt được dễ dàng mà thôi. Bất quá là chỉ ngang nhau thôi. Vả lại, hai bên cũng chưa chính thức đụng độ bằng võ công chân chánh.

Lục Phỉ Thanh chỉ cười :

- Ừ! Có lẽ... rồi con sẽ biết!

Đến chiều, đoàn xa kiệu cũng như đoàn quân hộ vệ gia quyến Lý Khả Tú đến Bồ Long Cát. Thị trấn này có một khách điếm rất lớn, với một tấm bảng đề là “Thông Đạt khách sạn”. Trước ngõ là một cây tiêu kỳ của Trấn Viễn tiêu cục đang bay phất phới.

Vì đã được thông báo trước là sẽ có hai nhóm khách rất đông và sang trọng sẽ tới Bồ Long Cát nên chủ nhân khách sạn Thông Đạt đã sắp xết đầy đủ, đâu vào đó. Những phòng dành riêng cho đoàn Trấn Viễn tiêu cục hay những phòng nào chuẩn bị đón rước gia quyến cùng binh lính hộ vệ của Lý Khả Tú đều được phân biệt rõ ràng, có thứ tự đàng hoàng. Vì vậy, khi đến nơi, ai nấy đều được người của khách sạn đưa ngay vào phòng nghỉ ngơi, tắm rửa, ăn uống mà không cần phải mất công chọn lựa.

Lục Phỉ Thanh tắm gội, thay đổi y phục xong thì thấy trên bàn đã có sẵn một bình trà thơm ngon, hương tỏa ngào ngạt và mấy cái chén nhỏ và một cái ly lớn do người hầu mang tới từ hồi nào. Lục Phỉ Thanh bèn rót ngay vào cái ly lớn, thay vì dùng chén nhỏ để thưởng thức từ từ hương vị thơm ngon của trà. Ông mang ly trà đến phòng khách tìm một góc im lặng ngồi một mình. Phòng này, chủ nhân dành chung cho tất cả khách quý của Thông Đạt khách sạn tự tiện đến nghỉ ngơi, nói chuyện khảo chứ không cho ai mướn riêng. Nhìn vào trong, Lục Phỉ Thanh thấy có mấy người đang ngồi tại hai cái bàn lớn đang ăn cơm.

Lục Phỉ Thanh chợt nhận ra có hai người, mà một tên mang cái khăn gói màu hồng gặp trên lộ trình. Hắn vẫn mang khăn gói trên lưng, nhưng khí giới thì đã lấy ra khỏi người để trên bàn, cạnh hắn. Cà hai nét mặt dương dương tự đắc, nói năng tự do không giữ gìn như chẳng cần xem ai ra gì.

Lục Phỉ Thanh hớp một ngụm trà, ngước mặt lên để ý nhìn sắc trời. Tai ông nghe thấy tiếng một tiêu sư cười nói huênh hoang :

- Diêm ngũ gia, anh có dám chắc rằng bảo vật của anh sẽ đến nơi bình yên không? Nếu không gặp trở ngại mà đem được về kinh an toàn thì nhất định Thiên tướng quân sẽ thưởng cho anh một số bạc lớn, đồng thời sẽ thăng lên chức quan to để bù lại công lao khó nhọc. Tới chừng đó, anh sẽ sung sướng và được vinh dự biết bao!

Lục Phỉ Thanh nói thầm trong bụn rằng :

- À, thì ra hắn là nhân vật đứng thứ năm trong Quảng Đông lục ma tên gọi Diêm Thế Khôi. Hèn chi!

Nghĩ vậy, ông ta liền chăm chú để ý nhìn kỹ xem thần sắc của hắn. Diêm Thế Khôi nói :

- Một là thưởng tiền, hai là thưởng chức chứ có lẽ nào Triệu tướng quân lại rộng rãi đến thế được! Nhưng ý tôi thì không muốn cả hai thứ đó. Tôi muốn một điều khác kia...

Diêm Thế Khôi chưa nói dứt câu thì có tiếng “ồ ồ” của một người nói ngắt lời :

- Lạ thật! Cả hai điều sung sướng thế mà anh đều không muốn thì hỏi còn muốn cái giống gì đây?

Lục Phỉ Thanh để ý nhìn xem người nào vừa thốt câu đó. Trông y chẳng khác nào một con quỷ đói, tướng mạo thật hung hãn.

Lục Phỉ Thanh bụng bảo thầm :

- Nếu hắn được tuyển làm tiêu sư thì đương nhiên bản lãnh không phải tầm thường.

Diêm Thế Khôi nghe câu ấy thì có vẻ không được vui, thở ra một hơi dài. Người tiêu sư thứ nhất bất chợt lên tiếng :

- Đổng Triệu Hòa! Bộ anh tưởng chung quanh ta không có tai vách mạch rừng hay sao mà ăn nói tự do, bừa bãi như thế?

Người tiêu sư có hình dung như quỷ đói, tức Đổng Triệu Hòa tính tình hết sức nóng nảy và lỗ mãng. Nghe đồng nghiệp trách như vậy thì không bằng lòng, cho rằng hắn ta coi thường tài lực mình và có ý bảo mình bất cẩn, lơ là với trách nhiệm. Nghĩ vậy, hắn liền lớn tiếng như muốn gào lên :

- Tôi chẳng phải như những kẻ “miệng hùm gan sứa” kia đâu! Việc gì tôi làm thì quyết làm cho đến nơi đến chốn, dù chết cũng chẳng cần! Tôi không hề biết sợ ai và cũng không bao giờ lùi bước trước những gian nan hiểm nghèo!

Nhưng khi Đổng Triệu Hòa vừa nói xong câu ấy thì Diêm Thế Khôi lại tưởng là hắn xỏ xiên coi thường mình nên mặt đỏ tía tai la hét inh ỏi :

- Anh bảo ai là “miệng hùm gan sứa”? Anh ám chỉ ai vậy? Anh có dám bảo đảm là trách nhiệm của anh lãnh sẽ làm tròn được không?

- Tôi không ám chỉ ai cả. Tôi chỉ nói chung chung mà thôi. Tóm lại, những kẻ chỉ có nói mà không làm được thì toàn thị là những thứ anh hùng rơm. Còn công việc của tôi thì dĩ nhiên tôi phải hoàn thành.

Diêm Thế Khôi cười gằn :

- Được vậy thì tốt lắm! Nếu anh đạt được kết quả như lời anh nói thì tôi sẽ phục anh sát đất!

Lục Phỉ Thanh lắng tai nghe một hồi lâu nhưng vẫn không hiểu bọn chúng cãi nhau về chuyện gì. Đang định về lại phòng thì lại nghe tiếng Đổng Triệu Hòa nói :

- Diêm ngũ gia này! Anh muốn cưòi tôi cứ cười, muốn chê cứ chê. Có điều tôi nói thật cho anh nghe là nếu cái bao vải hồng kia mà được khoác lên vai này thì chớ ai hòng mà cướp được nó! Có lo thì tự lo cho các anh thì hơn. Đừng để cho thanh danh hơn 30 năm của Trấn Viễn tiêu cục cùng với uy tín của Vương Duy Dương phải mai một đi!

Diêm Thế Khôi cả giận nói :

- “Chú em” Đổng Triệu Hòa chớ có nói xàm! Chờ đến lúc Diêm ngũ gia ta đem bộ kinh này đến nơi an toàn sẽ cho chú em thấy thế nào là bản lãnh lợi hại. Diêm Thế Khôi là một nhân vật lừng danh trong Quảng Đông lục ma, chưa từng khiếp sợ ai hay để ai uy hiếp. Công việc của Trấn Viễn tiêu cục có lẽ nào lại hư hại dưới tay ta? Cái bao trên lưng ta gắn liền với tánh mạng ta, chú biết chưa?

Lục Phỉ Thanh nghe nói những lời “mục hạ vô nhân” như thế thì liếc mắt nhìn sơ qua cái bao trên lưng hắn, thì thấy chẳng có gì là lớn lắm. Cứ nhìn bề ngoài mà xét thì chắc hẳn là bên trong không có chứa vật gì to lớn nặng nề cả.

Đổng Triệu Hòa lại lên tiếng :

- Oai danh lừng lẫy cũng như bản lãnh cao siêu của Quảng Đông lục ma, đúng như anh vừa nói, anh mà lại không biết? Chỉ hiềm một nỗi là nhân vật thứ ba không biết mất tích hay bị kẻ thù ám hại mà mãi đến nay vẫn không biết sống chết nơi nào, kẻ thù là ai tưởng đáng chua xót lắm thay. Nói ra anh đừng buồn, nhưng coi chừng giang hồ sẽ đổi danh hiệu của các anh lại là “Quảng Đông ngũ ma” đấy!

Diêm Thế Khôi vỗ bàn một cái “rầm” làm cho chén dĩa nhảy tưng lên như khiêu vũ, lớn tiếng thét lên :

- Chú mày đừng chọc tức ta chứ! Làm gì bọn ta không biết kẻ thù ám hại Tiêu tam ca là ai?

- Là ai? Sao tôi nghe các anh đề cập đến tên họ một lần nào?

- Còn ai vào đây? Chính là Hồng Hoa hội! Nhất định chỉ có Hồng Hoa hội!

Lục Phỉ Thanh sững sờ, bụng bảo thầm :

- Quái lạ! Rõ ràng là mình giết chết Tiêu Văn Kỳ sao bọn chúng là quả quyết là Hồng Hoa hội? Mà Hồng Hoa hội là đảng phái nào? Sao trong từng ấy năm lưu lạc giang hồ mà mình được nghe đến tên bao giờ?

Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh nhẹ chân bước ra khỏi phòng khách ra ngoài đến đến một thân cây cổ thụ đang đơm bông, dùng thuật khinh công vọt một cái lên trên ngồi ngay chân ba mà không gây nên tiếng động nào cả. Cây cổ thụ này ở sát phòng các tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục nên Lục Phỉ Thanh vừa nhìn thấy, vừa lắng tai nghe được dễ dàng hơn.

Đổng Triệu Hòa tay bưng chung rượu tu vài ngụm rồi đặt xuống, khẽ vuốt chòm râu miệng tiếp tục nói khích :

- Thật là đáng buồn thay cho tình nghĩa bạn bè quá đi! Tôi đây không phải là cốt nhục của Tiêu tam gia mà nói đến đây lòng dạ như đốt như thiêu. Giá tôi mà thề nguyền sinh tử với Tiêu tam gia hẳn sau bữa cơm này sẽ xách gươm đi tìm Hồng Hoa hội mà trả thù cho bằng được chứ không thể ngồi yên tại đây mà lo hết chuyện này đến chuyện kia.

Diêm Thế Khôi bị Đổng Triệu Hòa trêu chọc đủ điều, dùng lời nói xa nói gần để “móc họng” thì lửa giận phừng phừng bốc lên, nhưng đành im lặng vì không biết cách nào mà trả lời.

Bỗng một tiêu sư nói xen vào vừa để làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, vừa là để chữa bớt thẹn cho Diêm Thế Khôi :

- Vị Tổng đà chủ của Hồng Hoa hội là Vu Vạn Đình chết hôm đầu tháng vừa rồi tại tại Vô Tích. Việc này trong giới giang hồ còn ai là chẳng hay biết? Vả lại vụ Tiêu tam gia bị ám hại không có bằng chứng cụ thể nào để buộc tội cho Hồng Hoa hội được. Thử hỏi, muốn làm cho ra chuyện thì bắt đầu ở đâu, cách nào? Nếu chúng ta đến chất vấn, Hồng Hoa hội phủ nhận, đòi đưa chứng cớ ra thì sao đây? Anh Đổng Triệu Hòa có biện pháp nào hay nhờ giúp chúng tôi ý kiến thử?

Đổng Triệu Hòa bị người tiêu sư ấy bẻ cho mấy câu cứng họng, không còn dám huênh hoang lên mặt thầy đời nữa.

Hằn đổi từ giọng chua cay sang giọng pha lửng mà rằng :

- Bọn Hồng Hoa hội chỉ có tài ỷ mạnh hiếp yếu, tất có ngày các anh sẽ ra tay trừng trị chúng thẳng tay, hà tất phải làm gấp rút làm chi cho mệt trí. Chỉ có một việc cần gấp hiện tại là các anh phải đem được bộ kinh về dâng cho Triệu tướng quân. Năm bộ kinh đã vào tay tướng quân rồi thì các anh muốn bao nhiêu vàng bạc trâu dê gì lại không được? Và lúc bấy giờ, cứ mượng thế lực của Triệu tướng quân mà bắt buộc Hồng Hoa hội làm điều gì mà chúng lại dám từ chối? Hoặc giả Diêm ngũ gia không muốn vậy thì xin Triệu tướng quân tặng cho một cô gái Hồi tuyệt đẹp mà vui với tuổi già cũng sướng chán!

Trong khi Đổng Triệu Hòa đang cao giọng lớn tiếng pha trò với bọn tiêu sư một cách hiu hiu tự đắc thì bất ngờ tai hắn nghe một tiếng “vèo”, rồi một vật gì như đất bùn bay tới! Đổng Triệu Hòa chưa kịp cúi xuống thì cục bùn bay lọt vào trám miệng hắn lại như “thầy chùa ngậm xôi”. Đổng Triệu Hòa miệng ấm ứ không nói được tiếng nào. Hai người tiêu sư có mặt trong phòng ấy lập tức rút vũ khí, củng nhảy bổ một lượt ra ngoài sân.

Diêm Thế Khôi cũng vội vã đứng dậy nhảy luôn ra sân phóng lên lưng ngựa cột sẵn tại đó, tay cầm cây Ngũ Hành luân chuẩn bị đối phó với những gì bất ngờ.

Em ruột Diêm Thế Khôi là Diêm Thế Chương nghe tiếng động cũng chạy đến nơi kịp thời, theo anh hộ vệ. Cả hai anh em họ Diêm đều không lo gì hơn là gìn gìũ cái bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi nên chỉ đứng yên tại chỗ chứ không nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ thích khách nào đó, sợ trúng phải kế “Điệu Hổ Ly Sơn”.

Đổng Triệu Hoa lúc đó đã nhổ được cục bùn từ trong miệng ra rồi bắt đầu chửi. Những tiếng nguyền rủa độc địa chẳng khác một trận mưa chửi mà không có ao hồ nào mà chứa đựng cho hết nổi! Hắn gọi cả ba họ tám đời ông tằng ông tổ kẻ nào chơi ác cho hắn “ăn” vật “không mấy thơm tho” đó.

Diêm Thế Khôi thấy bộ tịch Đổng Triệu Hòa thì vừa buồn cười, vừa thấy “đáng kiếp”, lại được cơ hội trả đũa nên phá lên cười nói :

- Xưa nay chửi rủa có chết ai bao giờ đâu? Chỉ hao hơi tổn tiếng thì có! Nhưng cũng tại chú hay nói khoác nên kẻ kia mới trám bớt miệng chú lại đó!

Đổng Triệu Hòa phần giận kẻ “chơi ác”, phần thì giận Diêm Thế Khôi thừa dịp “trả thù” lại mình lại càng chửi rủa bạo thêm nữa.

Bỗng có hai tiêu sư từ ngoài cửa bước vào. Một người là Thái Vĩnh Minh sử dụng một cây nhuyễn tiên, còn một người là Tiền Chính Luân sử dụng một thanh đơn đao. Cả hai cùng thở hổn hển nói :

- Kẻ gian trốn mất rồi, không làm sao tìm được vết tích nào!

Tấn kịch vừa rồi dĩ nhiên đều lọt cả vào mắt Lục Phỉ Thanh. Mà là một màn “kịch sống” thật ngoạn mục từ đầu đến cuối. Lục Phỉ Thanh nhận thấy Đổng Triệu Hòa là một tên gian manh già mồm giỏi nịnh, chỉ thích nói dóc và nói bậy nên bị ăn cục bùn là đáng lắm. Ông ta đang cười thầm trong bụng lại thấy ở góc đường phía Đông có một bóng người đang ẩn núp. Người này mặc đồ dạ hành. Trời lại tối đen như mực nên giả sử không có cặp mắt dạ quang của người hiệp khách thì khó lòng mà nhận ra.

Lại có một bóng người từ trên nóc nhà nhảy xuống đất nhẹ nhàng còn hơn chiếc lá rụng. Cái bóng này cứ nhắm hướng Đông mà phi tới vùn vụt như tên bắn. Lục Phỉ Thanh không còn nghi ngờ gì nữa, biết đích xác chính người này đã thảy cục bùn vào mồm Đổng Triệu Hòa. Không rõ đây là nhân vật như thế nào, ông ta dùng khinh công theo bén gót để xem cho rõ mặt. Trên tay Lục Phỉ Thanh vẫn còn cầm ly trà, vì lúc mới đến khách sạn chưa kịp uống trà thì đã phải vội vã chạy sang phòng khách dò xét động tịnh. Kế đó, hết chuyện này đến chuyện kia xảy ra nên ông chưa có dịp trở về phòng lần nào.

Suốt mấy mươi năm khổ luyện khinh công nên Lục Phỉ Thanh đã đạt đến mức “lô hỏa tuyệt thanh” nên ít có người nào sánh kịp. Ấy thế mà chạy mãi, Lục Phỉ Thanh vẫn không thể bắt kịp được bóng người phía trước. Chỉ trong chốc lát, bóng người đó đã mất hút.

Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai bóng đen đã rời xa khách sạn đến năm, sáu dặm đường. Lúc ấy, Lục Phỉ Thanh mới nhận được lờ mờ cái bóng đen phi thân trước mặt. Đó là một người nhỏ thó, lanh lẹ và ẻo lả tựa như là một thiếu nữ hơn là một thanh niên. Cứ nhìn mà xét thì lối khinh công của hai bóng đen ấy đã đến mức cao thâm tuyệt diệu. Và cứ thế, hai bóng đen kẻ trước người sau, như hai lằn tên xẹt bay mãi không ngừng.

Khi vượt qua một triền núi thì phía trước hiện ra một cụm rừng già cây cối sum xuê, tối đen như mực chẳng còn phân biệt được đâu là đâu nữa. Thoáng một cái, cái bóng đen mảnh khảnh đàng trước đã chạy sâu vào trong khu rừng rậm ấy.

Lục Phỉ Thanh vẫn không chịu bỏ cuộc, cứ một mạch theo đường rừng mà đuổi theo mặc dầu chẳng còn trông rõ được gì nữa hết. Vào trong bìa rừng được chừng một dặm thì cành khô lá rụng áng mất lối đi, không còn biết đi đường nào cho đúng hướng được nữa. Chân bước trên cành lá khô xào xạc, Lục Phỉ Thanh sợ rằng người phía trước nghe được âm thanh thì biết có người đang truy kích và sẽ sử dụng ám khí thì thật rất nguy hiểm.

Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh tạm dừng gót mà cố tìm ra cách nào là thượng sách thì chỉ trong nháy mắt, không còn thấy tung tích của bóng đen trước mặt nữa.

Trong giang hồ thường có câu khuyên răn đầy kinh nghiệm là “gặp rừng chớ vào”. Vả lại, đêm thì tối, rừng thì rậm, dầu có được cặp mắt dạ quang, có tài dạ hành của một cao thủ đi chăng nữa cũng khó mà tránh được kẻ thù khi chận ngạch thi hành ám toán.

Lục Phỉ Thanh là người tinh tế cẩn thận nên không dám đi sâu vào thêm nữa. Đang định thối lui trở về thì bỗng mây đen chợt tan đi, một vầng trăng sáng trong suốt từ trên không trung xuyên qua kẽ lá rọi xuống khắp rừng.

Ngước mặt nhìn ra phía trước, Lục Phỉ Thanh trông rõ là bóng một cô gái áo vàng lại từ trong cụm rừng vùn vụt trở ra.

Lục Phỉ Thanh chọn một lùm cây xanh rậm của một cây cổ thụ mà nhảy lên trốn để quan sát. Cách này rất hay vì ông ta có thể nhìn thấy rõ cả bốn bề mà không sợ bị ai phát giác được mình.

Cách cây cổ thụ đang trú không xa lắm, Lục Phỉ Thanh trông thấy rõ ràng dưới ánh sáng của “chị Hằng Nga” có tới tám, chín cái màn làm bằng vải bố được căng ra. Thật là một chuyện hết sức lạ lùng khiến cho tánh hiếu kỳ của Lục Phỉ Thanh không thể nào làm ngơ được.

Lục Phỉ Thanh định tâm nhất định phải tới nơi dọ thám một phen từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài! Có hai người đi qua đi lại, hình như là giữ nhiệm vụ canh gác. Chờ cho họ đi qua khỏi, Lục Phỉ Thanh dùng phép đề khí phóng một cái rơi xuống nhẹ nhàng sau lưng một con lạc đà đang đứng nhai cỏ bên ngoài màn vải. Người đứng gác vẫn điềm nhiên làm phận sự như không có gì xảy ra.

Bởi vì Lục Phỉ Thanh võ nghệ tuyệt đỉnh, đảm lược phi thường nên mới dám có hành động phiêu lưu mạo hiểm thế này. Thấy ở lều này không nghe rõ được gì, Lục Phỉ Thanh phi thân vọt sang phía sau lưng tấm màn vải lớn ở ngay chính giữa. Xem xét đâu vào đó cẩn thận, Lục Phỉ Thanh nằm rạp mình dưới đất lắng tai nghe.

Bên trong lều có những tiếng thốt lên với giọng nói thật lẹ và “líu lo”, nghe như là của người Duy. Tuy rằng Lục Phỉ Thanh từng sống ở quan ải lâu năm nhưng cũng không hiểu hết được ngôn ngữ của họ. Cố gắng lắng tai nghe thật kỹ, may ra chỉ hiểu được phân nửa câu chuyện họ bàn tán với nhau mà thôi.

Lục Phỉ Thanh khẽ giở một góc lều he hé lên vừa đủ cho cặp mắt nhìn vào được. Bên trong có hai ngọn đèn dầu đang cháy sáng. Ở trong lều, người này có thể nhìn rõ được mặt người kia không khó, nhưng nếu có kẻ ở bên ngoài vô tình đi ngang qua thì ắt bên trong không làm sao phát hiện ra được bởi bị tấm vải lều che khuất.

Lục Phỉ Thanh để ý thấy chung quanh hai ngọn đèn có rất nhiều người ngồi xếp bằng thứ tự dưới đất, già có, trẻ có. Những người này chẳng phải ai khác lạ, mà chính là những người Duy mà Lục Phỉ Thanh đã gặp qua lúc ban ngày trước khi đến sông Bảo Tháp.

Bỗng một giọng nói thanh tao dịu dàng chậm rãi ngân lên làm cho bầu không khí yên lặng thêm vẻ trang nghiêm.

Lục Phỉ Thanh quay mặt ngó sang chỗ phát ra giọng nói ấy thì không khỏi kinh ngạc. Thì ra đó là “cô gái áo vàng”. Khi nàng vừa nói xong câu ấy liền ngừng lại một chút đưa mạnh cánh tay lên như thề cương quyết hoàn thành một sứ mạng nào đó. Kế đến, nàng đưa tay rút từ trong bao ra một ngọn đao cong cong trông thật là sắc bén, tỏa ra hào quang sáng chói, nhìn mà lạnh cả người.

Cô gái áo vàng đưa bàn tay mặt ra, dùng lưỡi dao cứa đứt một vạch nhỏ ở một đầu ngón tay cho máu tươi nhỏ ròng ròng xuống vào ngay chính giữa một bình rượu có hình dạng giống hệt như một cái vú ngựa cái đang cần sữa hứng sẵn ở đó từ bao năm.

Noi theo gương cô gái áo vàng, tất cả những người Duy có mặt trong lều đều rút dao đeo bên hông ra, rồi từng người một tự cứa vào ngón tay mình để nhỏ huyết vào bình rượu ấy.

Sau khi tất cả mọi người làm xong nghi lễ “thích huyết”, cô gái áo vàng liền lớn tiếng gọi :

- Gia gia!

Tức thì một người Duy cao lớn, với dáng điệu hùng mạnh bưng bình rượu ấy giơ lên cao, long trọng nói một tràng tiếng Duy.

Lục Phỉ Thanh không hiểu được ý nghĩa toàn câu, chỉ nghe rõ được mấy tiếng “Khả Lan kinh” và “cố hương yêu dấu”. Còn đang suy nghĩ cố tìm cách hiểu câu nói kia thì cô gái áo vàng lại tiếp lời cho người Duy cao lớn mà nàng gọi là “gia gia”, hay nói cho đúng hơn là lập lại nguyên văn lời nói của ông ta. Giọng nói của nàng êm ái, nghe rất thanh tai nhưng không kém phần cảm khái lâm ly.

Cũng như lần trước, Lục Phỉ Thanh nghe “tiếng được tiếng mất”, nhưng chuyến này ông hiểu được đây là một lời thề, đại ý là: “Nếu chúng ta không đoạt lại được “Khả Lan kinh của Thần Thánh lưư truyền cho dân tộc thì thà chết ở xứ người chứ không trở về quê hương yêu dấu nữa”.

Cô gái áo vàng vừa thề xong tức thì tất cả những người Duy kia cũng lần lượt lên tiếng lập lại lời tuyên thệ đó. Ai nấy đều tỏ vẻ uất hận và cương quyết như sẵn sàng đem tánh mạng mình ra để hy sinh cho sứ mạng sắp thi hành của họ.

Dưới ánh đèn mờ, Lục Phỉ Thanh trông rõ được vẻ mặt của từng người một. Người nào người nấy đều khí khái can trường, đầy nhiệt tâm nhiệt huyết trước trách nhiệm thiêng liêng.

Sau phần tuyên thệ, bình rượu hình mã nhũ được hòa với máu rót ra làm ba chung, truyền tay từng người mà cùng nhau uống cho đến cạn. Sau đó họ cùng nhau bàn luận xôn xao, tất cả mọi người đều đóng góp ý kiến. Buổi họp hết sức trang trọng, chẳng khác gì một hội nghị thượng đỉnh của bộ “tổng tham mưu”.

Đến lúc này, Lục Phỉ Thanh có thể kết luận rằng đám người Duy kia lần này vượt sa mạc vào quan ải không ngoài mục đích thi hành một công tác trọng yếu chứ không phải chỉ là buôn bán tầm thường mà thôi.

Dân tộc họ có một bộ sách truyền quốc mà họ xem như vật vô giá thiêng liêng của Thần Thánh để lại. Đó là bộ Khả Lan kinh. Chẳng may, bộ sách ấy bị kẻ nào đó cướp đi mất nên họ thề nhất quyết phải theo đến nơi mà đoạt lại cho kỳ được, hoặc là chết. Lục Phỉ Thanh muốn biết rõ nhóm dân tộc người Duy ấy gốc gác thế nào nhưng vẫn chưa nghĩ ra được.

Nguyên đám ngưòi Duy này vốn là dân trong bộ lạc du mục thuộc Thiên Sơn Bắc Lộ, dân số vào khoảng trên dưới 20 vạn. Thủ lãnh của họ là Tù trưởng Mộc Trác Luân, rất được dân chúng thương mến và kính phục. Mộc Trác Luân võ nghệ trác tuyệt mà nhân nghĩa cũng vang dội khắc gần xa.

Cô gái áo vàng là con gái lớn của Mộc Trác Luân tên gọi Tiêu Thanh Đồng, vốn là đệ tử yêu quý nhất của Thiên Sơn Kỳ Hiệp Trần Chánh Đức phu nhân, nhũ danh là Quan Minh Mai. Tiêu Thanh Đồng nhờ vậy mà học được những võ công tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn.

Hai vợ chồng Trần Chánh Đức và Quan Minh Mai dù là người của phái Thiên Sơn nhưng thích cảnh an nhàn ẩn dật thành thử chỉ muốn sống riêng biệt, không qua lại với môn phái. Bất luận hành hiệp nơi đâu cũng chỉ có hai vợ chồng với nhau mà thôi. Giới giang hồ thường gọi hai người là “Thiên Sơn song ưng”. Hai người niên kỷ bằng nhau, ngoài 60.

Vợ chồng Thiên Sơn Son Ưng rất thương yêu nhau, nhưng có điểm lạ kỳ là hễ gần thì xô xát, mà xa lại nhung nhớ. Tuổi hai người đã già mà tâm tính vẫn còn như lúc trẻ, không thay đổi chút nào. Các bằng hữu quen thuộc thường gọi đùa là “Hoan Hỉ Oán Gia”.

Tiêu Thanh Đồng thấy vợ chồng sư phụ lúc nào cũng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” thì cố dùng đủ cách để hòa giải cho vui vẻ cả nhà nhưng kết quả vẫn không đi đến đâu nên lắm lúc nàng cũng đâm ra buồn lây.

Tiêu Thanh Đồng thích mặc áo vàng, đội nón tơ có giắt cặp lông phí thủy nên giang hồ đặ cho nàng mỹ hiệu là “Phiêu Hiệu Nữ Lang”, còn giới võ lâm thuộc Thiên Sơn Nam Bắc phái thì gọi nàng với danh hiệu là “Túu Vũ Hoàng Khổ”.

Người Duy thuộc bộ lạc Thiên Sơn này chuyên sống du mục nay đây mai đó. Dưới thời nhà Thanh, thế lực vua Càn Long lan rộng ra tới bộ lạc những người Hồi. Hết vùng này tới vùng nọ bị sát nhập vào Thanh trào. Các dân tộc thiểu số như họ như cô thế, luôn luôn bị uy hiếp. Quan lại nhà Thanh đi lại liên miên, hạch sách đủ điều làm cho nhân dân khổ sở đến ta thán.

Mộc Trác Luân lúc đầu cũng muốn được yên thân nên đem vàng ngọc của cải ra đút lót cho quan lại nhà Thanh. Nhưng túi tham của bọn quan tham ô thì lại không đáy. Dù cho bao nhiêu của cải tích trữ bao lâu đem nộp cho chúng cũng vẫn không đủ. Lúc nào chúng cũng có cớ để hạch sách.

Sau cùng, của kho đã cạn, mà của dân thâu góp cũng kiệt quệ! Mộc Trác Luân phải cùng với dân chúng đi làm nghề buôn để sinh sống. Ngoại trừ con đường đó, người Duy chẳng còn cách gì khác hơn.

Để giữ yên được đất đai, nhiều lần Mộc Trác Luân đặc phái sứ giả đem lễ vật đến Y Lê cầu xin quan cai trị nhà Mãn Thanh hãy thương tình dân chúng người Duy nghèo khổ giảm cho các sưu cao thuế nặng. Nhưng có đời nào triều đình lại chịu thế! Lời kêu xin của Mộc Trác Luân đã chẳng được hiệu quả gì mà còn khiến cho triều đình Mãn Thanh đâm ra nghi kỵ, sợ người Duy nổi dậy, kéo theo sự hưởng ứng của người Hồi.

Quan cai trị là Triệu Huệ Trinh, biết dân tộc người Duy có một bộ sách của tổ tông nhiều đời để lại là “Khả Lan kinh” Bộ kinh thư này được thỉnh từ xứ Mạch Gia là nơi phát sinh ra Hồi giáo nên dân tộc người Duy thờ kính và vô cùng sùng bái.

Bộ Khả Lan kinh được xem như là quốc bảo, chỉ có vị Tù trưởng mới có quyền cất giữ, đã trải qua được mấy chục đời...

Biết được giá trị của bộ kinh này đối với dân tộc người Duy nên thừa lúc Mộc Trác Luân đem hết những kẻ thuộc hạ thân tín theo ông ta đi xứ xa buôn bán, Triệu Huệ Trinh mới sai một cao thủ lẻn sang bên ấy cướp lấy bộ Khả Lan kinh đem về cho hắn. Triệu Huệ Trinh nghĩ rằng một khi nắm được bộ kinh này trong tay thì không còn phải sợ người Duy nổi lên phản kháng lại triều đình nữa, tha hồ cho hắn mặc sức đòi hỏi bất cứ những gì, Mộc Trác Luân cũng phải riu ríu tuân theo.

Cái bao vải màu hồng mà Diêm Thế Khôi mang trên vai không khi nào dám rời cho dù là lúc ăn hay lúc nghỉ chỉ vì trong đó có “bảo vật” mà Triệu Huệ Trinh đang cần là bộ Khả Lan kinh.

Do đó mà Mộc Trác Luân với Tiêu Thanh Đồng và cả nhóm người Duy thề đem tánh mạng ra hy sinh để đoạt lại cho bằng được bộ kinh “truyền quốc” đó.

Bấy giờ, Lục Phỉ Thanh hiểu rõ là mưu đồ của đám người Duy kia chẳng díng dấp gì đến việc riêng của mình nên không muốn để ý hay nghe thêm chuyện riêng của họ nữa nên dùng thuật đề khí mà đứng thẳng dậy một cách gọn ghẽ, nhẹ nhàng. Vừa lúc ấy, ông bỗng thấy tất cả mọi người trong lều đều rập xuống một cái, nằm im trên mặt đất cả thảy.

Lục Phỉ Thanh hoang mang trong lòng, liền dùng thuật khinh công chạy ra khỏi chỗ núp. Chẳng ngờ chỉ trong nháy mắt Tiêu Thanh Đồng đã phát giác ra được là có người lén rình nghe rõ mọi chuyện nên ghé tai Mộc Trác Luân nói nhỏ :

- Gia gia! Bên ngoài có kẻ lạ mặt.

Dứt lời, nàng phi thân ra khỏi lều và thoáng thấy có một bóng người cứ theo đường rừng mà chạy thoăn thoắt như bay. Tiêu Thanh Đồng liền rút một ngọn Thiết Liên Tử nhắm theo cái bóng người ấy mà phóng đến “vèo” một tiếng.

Lục Phỉ Thanh đang lúc chạy tháo thân chưa ra khỏi được rừng thì nghe sau lưng có tiếng gió thì biết ngay là có ám khí. Ông lách mình né sang một bên trong khi tay vẫn còn cầm ly trà. Mũi Thiết Liên Tử vừa phóng tới, Lục Phỉ Thanh lấy bàn tay gạt mộ cái làm mũi ám khí rớt ngay xuống đất.

Nhưng tiếp theo đó, lại có thêm một mũi thứ hai phóng tới với tốc độ lẹ làng như tên bắn. Lục Phỉ Thanh dùng ly trà hứng một cái, mũi Thiết Liên Tử bắn xuyên qua ly, nhưng lạ thay không làm cho ly vỡ mà lại dính chặt vào đáy ly.

Lục Phỉ Thanh thầm khen ngợi bản lãnh Tiêu Thanh Đồng. Ông không quay đầu nhìn lại mà cứ tiếp tục dùng khinh công bay thẳng một hơi về khách sạn.

Tại khách sạn, mọi người đã an giấc từ lâu. Bốn bề vắng ngắt. Đêm dài như vô tận, chìm đắm trong bóng tối. Một gã giúp việc trong khách sạn tay dụi mắt như vừa thức dậy miệng lè nhè hỏi :

- Thưa, lão gia chưa đi nghỉ? Chắc vì đêm nay nóng nực nên lão gia đi hóng mát phải không?

Lục Phỉ Thanh chỉ ậm ừ vài tiếng cho qua. Vào trong phòng ngủ, ông ta rút mũi Thiết Liên Tử ra khỏi đáy ly trà ra xem xét. Mũi ám khí được làm bằng một loại gang rất tốt gọi là “Tinh cao”. Trên mũi phi tiêu có khắc một hình lông cánh của một loài chim. Ngắm ngía một hồi, Lục Phỉ Thanh bèn cấy mũi Thiết Liên Tử ấy vào trong người...

Sáng sớm hôm sau, đoàn bảo tiêu đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, sửa soạn lên đường tiếp tục cuộc hành trình. Mấy tên hướng đạo ở hàng đầu lớn tiếng truyền rao :

- Bọn ta phái võ Duy Dương...

Sau đó là cây tiêu kỳ có hình bát quái của Trấn Viễn tiêu cục theo gió bay phất phới dẫn lộ cho một hàng tiêu xa khởi hành.

Lục Phỉ Thanh thấy các cỗ tiêu xa chở hàng hóa đi như bay, tương đối rất nhẹ nhàng, chứng tỏ là hàng hóa không chút nặng nề và hình như cũng không mấy gì được quan tâm đến cho lắm. Bình thường, nếu xe chở vàng bạc châu báu quý giá hay những hàng hóa nặng nề thì vết bánh xe sẽ in sâu xuống mặt đường và các tiêu sư cũng như các cao thủ hộ vệ sẽ rong ngựa bịt kín hai bên xe. Đằng này, vết bánh xe không in sâu xuống đường, và có khi cả mấy cỗ xe liên tiếp bỏ ngõ, không có ai cỡi ngựa đi kè để bảo vệ. Trái lại, các tiêu sư đều tập trung cả lại vào việc bảo vệ cho Diêm Thế Khôi. Chắc chắn một điều không thể lầm lẫn được là bảo vật phải nằm ngay chốn ấy, thậm chí ngay trên mình của Diêm Thế Khôi. Chẳng hạn như cái bao màu hồng khoác trên vai y... Đó mới chính là vật quan trọng đáng giữ gìn.

Đoàn bảo tiêu của Trấn Viễn tiêu cục đi được khoảng nửa tiếng thì Tham tướng Tăng Đồ Nam cũng điều động chỉ huy quân lính bảo vệ đoàn xa kiệu của gia quyến Lý Khả Tú lên đường...

Quãng đường này toàn là đá đỏ lởm chởm đồng thời lại gặp những khúc nghiêng của triền núi nên không thể nào đi mau được. Tuy vậy, Tăng Đồ Nam vẫn phải thúc giục quân lính ráng cố gắng làm sao lên được đỉnh núi để xuống kịp chân núi bên kia trước khi mặt trời lặn vì sẽ gặp được tại đó ba khách điếm và ba đường đi.

Đường đi trên núi hiểm hóc vô cùng. Càng lên cao, đường càng hẹp lại. Tăng Đồ Nam và Lý Mộng Ngọc phải theo sát kiệu của Lý thái thái và Lý phu nhân canh chừng, giữ gìn cẩn thận không dám lơ đễnh chút nào vì rủi nếu một tên kiệu phu lỡ sẩy tay sẩy chân tất nhiên sẽ làm đổ nguyên cả kiệu xuống vực thẳm, thân thể xương thịt người trong kiệu sẽ nát bấy như tương.

Đến giờ Thân, đoàn xa kiệu đã tới đèo Ô Kim. Trước mặt là đoàn tiêu của Trấn Viễn tiêu cục. đang xuống ngựa ngồi nghỉ chân. Tăng Đồ Nam thấy vậy cũng cho đoàn xa kiệu của mình tạm dừng bước, nghỉ mệt trong giây lát.

Đèo Ô Kim nằm ngay chính giữa hai ngọn núi cao chót vót, như giáp với mây trên trời nếu trông từ xa lại. Giữa hai núi có một con đường “độc đạo” chỉ có thể đi tới mãi mà không thể dừng chân lại nghỉ ngơi được vì đường đã dốc lại hẹp, chỉ vừa đủ cho một cỗ xe tứ mã qua lại mà thôi. Đã đến điểm này ắt phải đi thẳng một hơi lên trên đỉnh núi chứ không còn đường nào để lựa chọn cả!

Lục Phỉ Thanh chậm rãi đi rẽ phía đàng sau, ý không muốn cho người của Trấn Viễn tiêu cục trong thấy mặt ông.

Nghỉ ngơi được một lát, đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục bắt đầu lên đường, và đoàn xa kiệu của gia quyến Lý Khả Tú theo sau nối liền, cách không bao xa, chỉ vừa đủ khoảng cách theo đúng luật giang hồ để đoàn tiêu xa đi trước khỏi nghi kỵ là có ý này nọ. Xa xa trông hai đoàn giống hệt một con rồng đang vươn mình bò sát giữa một cái hố sâu thăm thẳm, vách đá dựng cao ngất.

Cả người lẫn ngựa đều mệt toát mồ hôi, vừa leo dốc vừa thở. Những người lãnh trách nhiệm tải hàng hóa và đồ vật tương đối nặng lên tiếng reo hò luôn để cổ võ cho nhau hầu quên đi cái nặng nhọc trước mắt.

Lục Phỉ Thanh đi đàng sau chợt phát hiện bên hữu của đĩnh đèo chót vót có một bóng người dường như núp theo bóng cây để tiện bề rình rập chi đó. Cùng lúc đó, ông lại nghe có tiếng lục lạc của bầy lạc đà ngân lên và từ trên triền núi xuất hiện một đám người Duy cỡi ngựa phi như bay xuống.

Cả đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục hoảng sợ kêu la thất thanh, bảo nhau phải làm sao ngăn cản được đám kỵ sĩ ấy, vì cái trớn đổ đèo thần tốc kia sẽ đẩy nguyên đoàn tiêu xa xuống vực thẳm tan xương!

Đổng Triệu Hòa điếng hồn, la lên :

- Thôi chết rồi! Thật vô phương chặn đứng lại kịp!

Đám kỵ sĩ người Duy với kỵ thuật tài tình khéo léo lanh lẹ dị thường, cứ tiếp tục giục ngựa sải xuống với khí thế vô cùng dũng mãnh, chẳng khác chi sóng vỗ nước tràn.

Đoàn kỵ sĩ, độ chừng chục người trở lại thình lình cất tiếng hát vang lên. Tiếng hát của họ lảnh hót ngân vào trong vách đá làm vang dội lại một thứ âm thanh nghe rất là kỳ quái, chẳng hiểu chi là chi!

Cũng lúc ấy, hai bên chót của đỉnh đèo xuất hiện những bóng người, có lẽ là đã mai phục sẵn từ bao giờ đứng dậy như ma quỷ hiện hình cũng trổi giọng hát hòa nhịp với đám kỵ sĩ. Cả đoàn tiêu xa vừa lo sợ, vừa ngạc nhiên đến sửng sốt.

Thình lình, trong đám người Duy kia phát ra một tiếng hồ tiêu. Có hai kỵ sĩ người Duy bỗng giục ngựa phi như bay, tách hẳn đoàn xông thẳng về phía Diêm Thế Khôi. Hai người đột nhiên tấn công vào kỵ sĩ đi phía sau bảo vệ cho Diêm Thế Khôi là Diêm Thế Chương, và bốn con lạc đà cùng tới một lượt vây chặt Diêm Thế Khôi vào giữa.

Hai anh em họ Diêm trong Quảng Đông lục ma có nhiều kinh nghiệm trong những cuộc đương đầu với các cao thủ nên cho dù đứng trước tình trạng hiểm nghèo mà tinh thần không bị rối loạn. Hai người biết là đang bị ở thế bất lợi, không thể dùng số đông mà đối phó được với đám người đông đảo từ trên dốc đánh xuống như thác nước đổ. Cả Diêm Thế Khôi lẫn Diêm Thế Chương đều rút binh khí ra tự lực đối phó và tùy cơ ứng biến.

Bốn người Duy cỡi bốn con lạc đà bỗng đưa cao cây côn sắt rồi cùng nhau đánh bổ xuống đỉnh đầu Diêm Thế Khôi một lượt. Cây côn sắt của họ vốn không phải là vũ khí tầm thường. Mỗi cây phải nặng trên trăm cân, mà cả bốn người đều có sức mạnh ghê gớm cả. Đã ở trong thế kẹt mà chỗ đứng lại nhỏ hẹp nên không làm sao né tránh kịp chỉ còn cách nhắm mắt bưng tai mà chịu trận, chờ chết mà thôi. Toàn thân Diêm Thế Khôi luôn cả con ngựa hắn cỡi đều nát ra như cám, thịt xương, máu óc văng tung tóe, dính cả lên ngọn lá cành cây, đẫm tràn trên mặt lộ.

Một bóng vàng trong đám người Duy cỡi ngựa phóng ra. Người đó chính là Tiêu Thanh Đồng chứ chẳng phải ai khác hơn. Nàng bước tới phía trước lanh lẹn nhảy từ trên yên xuống cẩn thận rút kiếm cắt giây buộc nơi cái bao vải màu hồng ở trên lưng Diêm Thế Khôi thì nghe sau lưng có một luồng gió tạt đến, một lưỡi kiếm nhắm vào nàng đâm thẳng tới.

Tiêu Thanh Đồng chỉ chú trọng vào chiếc bao hồng thôi nên không có ý muốn giao chiến, nên nàng khẽ lách mình tránh khỏi mũi kiếm hiểm ác đó. Tay nàng cầm kiếm cố cắt nốt những đường giây còn lại dính liền cái bao hồng trên lưng Diêm Thế Khôi.

Nhưng kẻ vừa đâm mũi kiếm kia quyết không để cho Tiêu Thanh Đồng có đủ thì giờ để cướp đi cái bao vải hồng mà bọn hắn đã liều mình bảo vệ, dùng tánh mạng Diêm Thế Khôi để giữ gìn cho nên Tiêu Thanh Đồng vừa tránh kịp được mũi kiếm thứ nhất thì mũi kiếm thứ nhì lại nhắm thẳn vào hông nàng mà đâm tới. Mũi kiếm này so với mũi trước thì có phần hiểm ác hơn nhiều.

Biết chẳng thể né tránh kịp được mũi kiếm này, Tiêu Thanh Đồng buộc lòng phải đưa lưỡi kiếm của nàng ra đón đỡ. Hai lưỡi kiếm va chạm vào nhau một cái thật mạnh đến lóe lửa, tạo nên một âm thanh hết sức ghê rợn.

Biết địch thủ của nàng không phải tầm thường, Tiêu Thanh Đồng không dám chậm trễ, vội vã nhanh tay cắt bừa những mối giây cột bao vải hồng nhưng tai mắt luôn luôn đề phòng những biến cố chung quanh vì nếu sơ ý có thể mất mạng như chơi trong đường tơ kẽ tóc. Người kia lại chém ngay cườm tay nàng thêm một nhát kiếm nữa. Tiêu Thanh Đồng rút vội bàn tay trái của nàng lại tránh được lưỡi kiếm của đối phương dễ dàng mà còn lấy hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng xỉa vào đối phương cùng với mũi kiếm. Người kia chỉ khẽ lùi lại đã tránh được cả mũi kiếm và mũi xỉa bằng tay của nàng.

Tiêu Thanh Đồng uất hận vô cùng. Nàng ngước mắt nhìn lên xem thử là ai đã ba lần làm cho nàng mất cơ hội đoạt lại cái bao hồng trên lưng Diêm Thế Khôi. Nàng lại càng lồng lộn lên khi thấy rõ kẻ đó chính là “chàng thanh niên tuấn tú” đã từng giở thói vô lễ với nàng lúc gặp nhau trên đường lộ. Tiêu Thanh Đồng không hiểu oan gia nào phá rối mà cứ khiến xui cho chàng thanh niên kia đeo theo cản trở công việc sắp thành công của nàng.

Tiêu Thanh Đồng nộ khí xung thiên vung kiếm lên chém loạn xạ như bão táp mưa sa. “Chàng thanh niên” ấy cũng thi triển hết những thế kiếm bí hiểm tạo nên một trận ác đấu dữ dội như gió chạy cát bay.

Tiêu Thanh Đồng vừa đấu vừa căm phẫn. Nếu không phải vì “chàng thanh niên” này xen vào công việc của nàng với đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục thì công tác của nàng đã hoàn thành, nhiệm vụ của nàng đã viên mãn. Vì chàng thanh niên ấy mà bao nhiêu công lao, bao nhiêu hy sinh của mồ hôi nước mắt của dân nàng há đành trôi theo giòng nước hay sao?

“Chàng thanh niên” ấy chẳng phải ai khác hơn là cô gái cải nam trang Lý Mộng Ngọc. Nàng đang ở đoàn xa kiệu theo hầu bà nội và mẹ bỗng nhiên thấy thấy đội lạc đà của người Duy bao vây đoàn xa tiêu của Trấn Viễn tiêu cục mà tấn công. Chẳng cần biết đắn đo lợi hại hay phân biệt điều phải trái ra sao lại tự phụ vào tài năng nên Lý Mộng Ngọc xông lên ngăn cản Tiêu Thanh Đồng với mục đích thử tài cao thấp. Chỉ vì nàng nghe sư phụ Lục Phỉ Thanh khen Tiêu Thanh Đồng võ nghệ giỏi hơn mình nên không phục, hễ gặp cơ hội là tìm cách giao đấu để làm thỏa mãn tự ái của mình ngay.

Quả đúng như lời tiên đoán của Lục Phỉ Thanh, chính vì cái thông minh của Lý Mộng Ngọc đã khiến cho nàng lầm lạc!

Những người ở bên triền núi chỉ trố mắt nhìn sang trận đấu thư hùng giữa Tiêu Thanh Đồng và Lý Mộng Ngọc. Tiêu Thanh Đồng đâm một hơi ba kiếm nhưng bị Lý Mộng Ngọc giải trừ được hết làm cho nàng đầu nóng tai ù, tức giận đến cực độ. Nàng dư hiểu là trong đám tiêu sư theo bảo vệ Diêm Thế Khôi kia có nhiều kẻ có bản lãnh cao siêu không dễ cho nàng thắng nổi. Nếu ra tay ở chỗ lớn ắt mười phần nhắm thất bại cả mười. Do đó Tiêu Thanh Đồng mới chọn đồi Ô Kim, là nơi hiểm yếu để thi hành kế hoạch, lấy lợi thế trên cao đánh xuống, rất hữu hiệu cho chiến thuật “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”. Chỉ một trận đánh có thể thành công được. Tới chừng đó, khi nhiệm vụ hoàn tất cả đoàng ca khúc khải hoàn trở về nơi tổ quốc thân yêu thì còn gì vui vẻ hân hoan hơn nữa.

Tiêu Thanh Đồng lần này thi hành kế hoạch nắm chắc phần thắng trong tay. Dù cho đối phương có đông người, võ nghệ có cao siêu đến bậc nào cũng không tài nào đối phó kịp. Mưu kế như Gia Cát, cơ trí như Châu Du, Tiêu Thanh Đồng đã dùng kỵ binh lũng kích Diêm Thế Khôi mười phần nguy kịch, bắt buộc đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục phải lọt vào kế hành quân của nàng, chỉ đứng ngoài mà ngó chứ không dám vào trợ chiến. Tiêu Thanh Đồng quả nhiên đã chận đứng được đám tiêu sư kia. Không ai dám liều mạng xông vào vì biết nếu làm thế thì chỉ uổng mạng như Diêm Thế Khôi hoặc nguy khốn như Diêm Thế Chương mà thôi.

Thành công đã thấy trước mắt. Nào ngờ Lý Mộng Ngọc can thiệp vào! Tiêu Thanh Đồng có ngờ đâu là nàng bị cái thế “trợ Kiệt” là Lý Mộng Ngọc dù cố ý hay vô tình đã đứng vào phe Trấn Viễn tiêu cục!...

Tâm hồn của Tiêu Thanh Đồng chỉ có được một nửa trong trận đánh, còn một nửa kia cứ canh cánh nghĩ mãi về chiếc bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi đã chết. Cho nên càng đánh, nàng lại càng thấy kiếm pháp của Lý Mộng Ngọc kỳ diệu thật khó lòng mà đánh thắng để lấy được cái bao hồng. Tiêu Thanh Đồng toát cả mồ hôi ướt đẫm như tắm.

Không thể ham đánh mãi, Tiêu Thanh Đồng đột nhiên phóng ra một thế kiếm gọi là “Tam Phân kiếm thuật” của phái Thiên Sơn, đánh Lý Mộng Ngọc lùi dần ra sau. Thế kiếm này là tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn, không bao giờ truyền cho ai ngoại trừ một vài đệ tử thân tín như Tiêu Thanh Đồng.

Lý Mộng Ngọc thấy kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng bỗng nhiên biến ảo vô cùng. Một đường kiếm biến thành ba, kiếm quan hết sức linh động. Có một điều là thế “Tam Phân kiếm thuật” này chỉ có công mà không có thủ. Bao nhiêu lợi hại đều tuôn ra hết, không dành lại cho mình một chiêu nào để phòng thân cả.

Thấy Tiêu Thanh Đồng dùng thế “Băng Hà Đảo Tả” đâm tới vô cùng mạnh mẽ, Lý Mộng Ngọc bèn dùng chiêu “Nhất Trụ Hương” với ý định đánh bạt lưỡi kiếm địch thủ qua một bên. Nhưng chẳng ngờ chỉ còn cách nhau hai thước chiêu kiếm của Tiêu Thanh Đồng tức khắc lại biến thành thế “Thiên Lý Lưu Sa” gạt lưỡi kiếm của Lý Mộng Ngọc sang một bên rồi cứ thế thẳng đường đâm tới.

Lý Mộng Ngọc kinh hãi vô cùng, vội vàng chuyển mũi kiếm trở về trước bụng để bảo vệ. Nhưng thật là kỳ quái, rõ ràng địch thủ đâm mũi kiếm ngay bụng Lý Mộng Ngọc với tất cả sức mạnh nhưng chưa tới đích thì đã chuyển ra thế “Phong Quyện Trường Thảo”, từ trên sa xuống như điện xẹt chém mạnh vào cánh trỏ tay trái của Lý Mộng Ngọc làm cho nàng luýnh quýnh chỉ còn nước liều nhảy ra sau một bước. Vừa tránh được lưỡi kiếm lợi hại ấy trong đường tơ kẽ tóc, chưa kịp hoàn hồn thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ra thế “Cử Hỏa Liệu Thiên” quay ngược mũi kiếm từ dưới lên trên nhanh như gió, chém sả vào vai trái Lý Mộng Ngọc.

Lý Mộng Ngọc vừa tránh khỏi được thì Tiêu Thanh Đồng lại ra thế “Tuyết Trung Kỳ Liên” chém tả chém hữu vùn vụt như tên lìa khỏi cung. Mặc dầu Tiêu Thanh Đồng không có ý làm tổn hại đến tánh mạng Lý Mộng Ngọc nhưng cũng ghép nàng vào tình trạng vô cùng khốn đốn.

Cả hai giao đấu với nhau một lúc đã khá lâu, không biết là bao nhiêu hiệp. Lý Mộng Ngọc mệt lả cả người, mồ hôi đổ như tắm. Đó là Tiêu Thanh Đồng chỉ dùng có một phần trong “Tam Phân kiếm thuật” bí truyền của phái Thiên Sơn. Hễ Lý Mộng Ngọc đón đỡ được một thế kiếm thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ngay ra chiêu khác. Nếu là người võ công tầm thường ở ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng là hai người giỡn chơi với nhau, nhưng sự thật đó là một trận đấu nguy hiểm vô cùng, tánh mạng lúc nào cũng như mành chỉ treo chuông.

Tiêu Thanh Đồng cú vây chặt Lý Mộng Ngọc trong vòng kiếm pháp của mình mà không ngừng đâm chém. Mũi kiếm luôn luôn vung ra cách mình nàng chừng một thưóc rồi lại tấn công tới tấp khiến Lý Mộng Ngọc loạn cả mắt, ù cả tai, và tay chân thì bủn rủn, cứ lùi dần, lui mãi...

Kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng vô cùng biến ảo khiến cho Lý Mộng Ngọc không tài nào đoán được. Nếu không nhờ Nhu Vân kiếm của Lục Phỉ Thanh tận tình chỉ dạy cho để hộ thân trong lúc nguy kịch thì chưa biết tánh mạng nàng sẽ ra sao. Nhu Vân kiếm của Lý Mộng Ngọc thật ra cũng luyện được đến nơi đến chốn. Nhưng nàng quên mất một yếu tố quan trọng là người sử dụng kiếm thuật này phải tự tin, tâm phải vững để lấy “tĩnh” mà chế “động”. Nếu nhớ kỹ được điều ấy thì cho dù địch thủ có biến ra bao nhiêu thế kiếm kỳ lạ hay tuyệt diệu đi chăng nữa cũng không không thao túng được đối phương.

Hiềm là Lý Mộng Ngọc mới bước chân vào giang hồ, chưa thật sự cùng ai giao đấu nên thiếu hẳn “kinh nghiệm chiến trường”. Vì vậy khi thấy Tiêu Thanh Đồng sử dụng toàn những chiêu kiếm kỳ lạ thật lanh lẹ, so với kiếm thuật của mình còn hơn bội phần thì tâm thần bỗng dưng hoang mang, mất hết tự chủ. Biết mình chưa phải là đối thủ của Tiêu Thanh Đồng, Lý Mộng Ngọc lừa thế thoát ra được vòng kiếm của đối phương rồi dùng khinh công đào tẩu.

Tiêu Thanh Đồng không thèm rượt theo, chỉ quay mình lại thì thấy một người đang cắt nốt mấy sợi giây buộc của cái bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi. Nhanh như cắt, hắn đã giựt lại được cái bao kia ra.

Tiêu Thanh Đồng bèn phóng một đường kiếm chặn lại, không cho tẩu thoát. Tên ấy bỗng kêu lớn lên :

- Ý thôi! Để lão Đổng này đi về chứ! Cản lại làm chi?

Hắn chính là Đổng Triệu Hòa. Hắn liệu sức, không dám chống cự với Tiêu Thanh Đồng nên lẹ chân nhảy vọt ra sau ba bước, lánh mình trốn nhủi trốn chui như một con chuột nhắt.

Tiêu Thanh Đồng không chịu bỏ, vừa rượt theo, vừa vung kiếm chém không ngừng. Bỗng nhiêu một ngọn Ngũ Hành luân từ đâu đánh bổ tới ngay bụng Tiêu Thanh Đồng. Nàng không dám khinh thường nên phải xoay ngược kiếm đón lấy, gạt ngọn Ngũ Hành luân sang một bên. Đổng Triệu Hòa nhờ thế mà thoát thân được.

Nguyên Mộc Trác Luân dùng kế hoạch rất chu đáo, trước mặt cũng như mé sau lưng đoàn bảo tiêu của Trấn Viễn tiêu cục đều bố trí những thớt lạc đà chặn lại hết. Kế hoạch rất hữu hiệu khiến cho cả tiêu đoàn trước sau không trông thấy được nhau, mà cũng vô phương cứu viện.

Mộc Trác Luân một mình một đao đấu với hai tiêu sư là Thái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân luôn tay không nghỉ. Và nhờ có hai người cầm chân được Mộc Trác Luân, Diêm Thế Chương mới thừa dịp đó vượt qua được mà không bị cản trở và phóng Ngũ Hành luân để yểm trợ cho Đổng Triệu Hòa.

Nguyên Diêm Thế Chương sau khi nhìn thấy Diêm Thế Khôi bị thảm tử thì lửa giận sôi lên. Y phóng ngựa liều lĩnh vượt qua bầy lạc đà, một tay cầm Ngũ Hành luân phang một cái thật mạnh vào cây côn sắt của người Duy lãnh nhiệm vụ đứng canh xác của Diêm Thế Khôi. Nhát phang quá mạnh khiến cho cây côn sắt dội ngược lại ngay đầu người Duy vỡ sọ lăn từ trên lưng lạc đà xuống đất chết tươi.

Thấy một người đồng bọn ngã gục, một người Duy khác tiến tới đương cự, cầm cây côn sắt nhắm đầu phang Diêm Thế Chương một cái. Diêm Thế Chương liền dùng cây Ngũ Hành luân đánh bạt cây côn sắt qua một bên rồi dùng tay còn lại bắt lấy. Có lẽ là đôi khi lửa giận bốc phừng phừng và liều chết coi thường nguy hiểm, sức lực con người cũng nhờ vậy mà gia tăng.

Nhờ Diêm Thế Chương liều mạng ôm cây côn sắt của người Duy giữ chặt nên Đổng Triệu Hòa có đủ thì giờ để gỡ cái bao hồng trên lưng tử thi Diêm Thế Khôi ra mà tẩu thoát được.

Thấy Tiêu Thanh Đồng rượt theo Đổng Triệu Hòa, Diêm Thế Chương liền bỏ cây côn sắt đang giằng co với người Duy ra, thúc ngựa thật mau xông tới phóng cây Ngũ Hành luân cản đường kiếm của Tiêu Thanh Đồng lại mà cứu nguy cho họ Đổng.

Sau khi Đổng Triệu Hòa thoát thân được ôm theo cái bao màu hồng thì Tiêu Thanh Đồng và Diêm Thế Chương tiếp tục giao đấu. Trao qua đổi lại ít chiêu, cả hai bên đều ngầm khen ngợi tài nghệ tuyệt vời của nhau. Tiêu Thanh Đồng vừa đánh vừa nơm nớp lo sợ “anh chàng đẹp trai” ban nãy trở lại giúp sức cho Diêm Thế Chương. Nàng vừa đánh vừa đề cao cảnh giác.

Bỗng nhiên tiếng hồ tiêu từ hai bên triền núi lại vang lên. Tiêu Thanh Đồng biết đó là ám hiệu cho biết phải rút lui. Nàng tin chắc là “quân tiếp viện” của đoàn tiêu xa đã đến nơi rồi. Nàng đảo mắt nhìn qua tứ phía một lượt thì Đổng Triệu Hòa vai mang cái bao màu hồng, cỡi ngựa như bay vượt qua khỏi núi.

Tiêu Thanh Đồng lập tức dùng ngay “Tam Phân kiếm thuật” tấn công Diêm Thế Chương tới tấp. Những chiêu kiếm của nàng chẳng khác nào “tuyết rơi lá rụng” khiến cho Diêm Thế Chương phải lùi lại đàng sau liên tục.

Tiêu Thanh Đồng bỗng bỏ Diêm Thế Chương, dùng khinh công bay lên hướng đỉnh núi như bay rượt theo Đổng Triệu Hòa. Tiếng hồ tiêu càng lúc càng thêm inh ỏi. Mộc Trác Luân vội lớn tiếng gọi lại :

- Mau trở về thôi con! Đừng rượt nữa!

Tiêu Thanh Đồng xưa nay chưa bao giờ dám cãi lời thân phụ bất cứ điều gì, bất luận trong trường hợp nào. Nên khi vừa nghe ông gọi nàng liền vâng lời trở về ngay, không chút do dự. Sau đó, nàng đốc thúc đám người Duy đem tử thi của người bị đánh chết cùng với người bị thương cho lên lưng lạc đà. Khi tất cả đều lên lưng ngựa hay lưng lạc đà thì tiếng hồ tiêu lại trổi lên. Đoàn người Duy nhắm chân núi đi thẳng xuống. Mới đi được một đoạn, Tiêu Thanh Đồng gặp một đám Thanh binh chừng vài chục mạng chặn đầu lại. Tăng Đồ Nam cầm thương múa, giục ngựa đến trước nạt lớn :

- Bọn thổ phỉ kia thật là to gan lớn mật? Có phải định tạo phản chăng?

Tiêu Thanh Đồng chẳng nói chẳng rằng, rút gươm ra đánh Tăng Đồ Nam một trận “tơi bời hoa lá”. Không đầy mấy hiệp, cây thương của Tăng Đồ Nam đã bị Tiêu Thanh Đồng đánh văng khỏi tay rớt xuống đất. Mộc Trác Luâm cũng dũng mãnh vung đao lên chém ngang chém dọc để mở đường. Cả đám người Duy bỗng hăng lên đánh thật dữ dội, và kết cuộc là đám binh lính của Tăng Đồ Nam phải vẹt đường ra.

Từ sau, Diêm Thế Chương và Thái Vĩnh Minh cũng đuổi tới nơi. Tiêu Thanh Đồng không nao núng, một mình múa kiếm như bay đánh cả hai người. Bỗng nhiên từ trong đám người Duy có một người cỡi ngựa phóng ra la lớn lên :

- Nhị muội, em hãy chạy đi! Để chúng nó cho anh!

Người đó chính là anh ruột Tiêu Thanh Đồng tên là Tiêu Y, tay cầm một cây trường thương, một mình xông tới đánh với hai tiêu sư. Tiêu Thanh Đồng cũng hợp sức với anh đánh kịch liệt. Nhưng cả hai anh em với mục đích chỉ để cản đường cho đám người Duy chạy thoát thôi nên vừa cả hai vừa đánh vừa lui.

Lại thêm một hồi tiêu nữa trổi lên ở hai bên triền núi, cả Tiêu Thanh Đồng và Tiêu Y cùng quay ngựa bỏ chạy.

Diêm Thế Chương rượt theo bén gót. Tiêu Thanh Đồng liền rút ra một ngọn Thiết Liên Tử nhắm đầu Diêm Thế Chương mà phóng. Diêm Thế Chương cả kinh dùng Ngũ Hành luân mà đóng lất. “Keng” một tiếng, cổ tay Diêm Thế Chương nhói lên một cái, đau nhức vô cùng. Cùng lúc ấy, ở hai bên triền núi từng cục đá lớn từ đâu lăn xuống như trời long đất lở. Thừa lúc hỗn độn, đám người Duy kéo nhau chạy đi thật lẹ, an toàn tẩu thoát...

Nhìn thấy tử thi anh ruột chết một cách thê thảm, tử thi thì dập nát, máu thịt tơi bời, Diêm Thế Chương bất giác òa lên khóc. Tiền Chính Luân và Thái Vĩnh Minh dùng lời an ủi mãi, Diêm Thế Chương mới chịu lên ngựa nhưng nét mặt thật ảm đạm u sầu. Những người trong tiêu đoàn thâu lượm tất cả tử thi những người bất hạnh bỏ hết lên xe.

Chỉ có Đổng Triệu Hòa là có vẻ đắc ý, khoác lác nói :

- Nếu lão Đổng ta mà không lanh tay thì chắc chắn con bé kia đã đoạt mất cái bao quý này rồi. Lão Đổng đã nói trước là không chắc gì Diêm ngũ gia bảo vệ được nó. Quả đúng như vậy, không có lão Đổng này thì cái chết của Diêm ngũ gia chỉ uổng phí mà thôi!

Cả đám tiêu sư nghe Đổng Triệu Hòa ăn nói huênh hoang bừa bãi, đã không được một lời chia buồn với người đồng nghiệp vừa chết mất anh ruột lại tỏ ra đắc ý khoe công cướp lại được cái bao màu hồng kia đồng thời thốt lên toàn những lời vô tình bạc nghĩa nên ai nấy đều bất bình. Nhưng đang lúc có chuyện buồn không vui sau cơn nguy khốn nên không ai nghĩ đến chuyện cãi vã hay sinh sự với hắn, nên đành lặng thinh im tiếng...

Còn nhắc về Lục Phỉ Thanh thì ông ta được chứng kiến tất cả từ đầu đến cuối, nhưng chỉ làm kẻ bàng quan mà ngó thôi chứ chẳng theo bên nào chống bên nào.

Lý Mộng Ngọc bị lép vế dưới “Tam Phân kiếm thuật” của Tiêu Thanh Đồng nhưng làm cản trở “cô gái áo vàng” kia không cho cướp đi “Khả Lan kinh” cũng như làm cho kế hoạch của đám người Duy thất bại. Cho đó là một “kỳ công” của mình, nàng ta vênh vênh váo váo, ra chiều rất tự đắc, đinh ninh rằng ai cũng phải tán tụng, mang ơn nàng.

Ngờ đâu Diêm Thế Chương đau khổ vì cái chết của anh ruột, đám tiêu sư mắc bận việc lo thu nhặt những tử thi và băng bó cho những người bị thương, còn Đổng Triệu Hòa thì chỉ nghĩ đến cái bao màu hồng trên lưng kia từ đây thuộc về hắn nên không ai để ý gì đến Lý Mộng Ngọc cả.

Cả đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục vờ đi, hoặc giả cố tình không biết, không ai nói với Lý Mộng Ngọc lời nào, xem như nàng chẳng giúp được gì cho họ cả. Lý Mộng Ngọc thấy vậy lòng buồn ruời rượi, tiếc công mình đã “vào sinh ra tử”.

Đổng Triệu Hòa nhìn thấy Tăng Đồ Nam, bỗng nhớ lại vị “võ quan võ nghệ cao siêu” ban nãy chỉ huy đám quan binh chặn đường đám người Duy lại mà phải tổn hại một số binh lính khá đông nên vội vã đến trước mặt vòng tay, lễ phép nói những câu “cảm nghĩa”.

Bản ý Đổng Triệu Hòa không phải là cám ơn Tăng Đồ Nam đã ra tay trợ lực bọn chúng, chẳng qua vì thấy họ Tăng là võ quan, có thế lực nên chủ tâm muốn thân cận để được nhờ mai sau. Nhưng Đổng Triệu Hòa trước sau không được một tiếng nào với Lý Mộng Ngọc, “chàng thanh niên tuấn tú” đã liều thân ngăn cản “cô gái áo vàng” để cho hắn có cơ hội lấy cái bao vải màu hồng còn treo lủng lẳng trên lưng tử thi Diêm Thế Khôi.

Nếu không có Lý Mộng Ngọc thì cho đến mười cái mạng như Đổng Triệu Hòa cũng phải tiêu tùng dưới tay Tiêu Thanh Đồng từ lâu rồi chứ nói gì đến chuyện đoạt lại được “Khả Lan kinh”!

Lẽ ra Lý Mộng Ngọc muốn “dạy” cho đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục một bài học đích đáng nhưng lại nhớ đến lời khuyên bảo của sư phụ là đừng ỷ tài sinh sự, nhất là đừng “nhanh nhẩu đoảng” can thiệp vào chuyện kẻ khác không liên quan gì đến mình nên mới đành nén giận làm thinh.

Tuy vậy, chỉ cần nhìn vào nét mặt là Lục Phỉ Thanh đã đoán được hết những nỗi bất bình trong thâm tâm của Lý Mộng Ngọc. Ông bèn gọi nàng đến gần bảo :

- Đồ đệ! Thầy đã từng nói cho con biết bao nhiêu lần rằng trong giới tiêu sư kia “người thì ít, ma thì nhiều”; tốt hơn hết là đừng đẻ ý gì đến bọn chúng cả! Sao con lại muốn cãi lời thầy mà định sinh sự với họ làm gì vậy?

Rồi Lục Phỉ Thanh mắng dồn cho Lý Mộng Ngọc một chập, nhất là việc nàng giúp bọn tiêu sư ngăn cản công việc của đám người Duy khiến cho họ phải thất bại...

Khi vượt qua đỉnh núi thì bóng ác đã lên non dài. Hoàng hôn bao phủ mặt đất một màu vàng nhạt, như báo trước rằng ngày sắp tàn. Đã đến lúc cho đoàn xa tiêu và đoàn xa kiệu phải tìm chỗ nghỉ ngơi. Một khách sạn nằm chắn ngang đường đi vào thị trấn. Khách sạn này thuộc hạng trung bình, không lớn mà cũng chẳng nhỏ.

Bọn kiệu phu thưa với Tăng Đồ Nam rằng :

- Thưa quan Tham tướng, ở ngay ngã ba vào các thị trấn chỉ có khách sạn An Viễn này là lớn hơn hết.

Đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục cũng dừng lại ngay khách sạn An Thông mà vào chọn phòng. Nhưng khi đến cửa chính, không một người nào ra tiếp đón niềm nở như các khách sạn khác.

Đổng Triệu Hòa lên tiếng ầm ĩ mắng to :

- Bộ tất cả người trong khách sạn này lớn nhỏ gì đều chết toi hết rồi hay sao mà chẳng có một mặt mo nào ra mời mọc chúng ông vào? Hãy coi chừng ông moi ba đời tổ tông chúng bay ra mà chửi rồi rồi phá tan khách điếm này cho mà biết mặt!

Lý Mộng Ngọc nghe Đổng Triệu Hòa ăn nói hồ đồ lỗ mãng thì thật tình chỉ muốn xáng cho hắn mấy cát bạt tai để sửa trị. Xưa nay chưa có ai dám đứng trước mặt nàng mà lên tiếng chửi rủa om sòm như vậy cả. Chỉ vì sợ Lục Phỉ Thanh mà Lý Mộng Ngọc đành bịm môi, nhưng trong bụng hầm hầm.

Một người trong đám gia nhân của Lý Khả Tú định đến ngay cửa để gọi người ra thì bỗng nhiên nghe bên trong có tiếng vũ khí va chạm vào nhau kịch liệc như đang xảy ra một trận ác chiến ghê gớm. Lý Mộng Ngọc day qua nói với Tăng Đồ Nam rằng :

- Chắc là có một trận giao phong ác liệt nữa ở đây rồi.

Miệng nói vừa dứt, Lý Mộng Ngọc cầm thương xông vào. Bên trong tuyệt nhiên không có một bóng người. Lý Mộng Ngọc chạy đến trước một căn phòng bỗng thấy một thiếu phụ đầu bù tóc rối đang chiến đấu kịch liệc với bốn người đàn ông trai tráng khỏe mạnh. Mặt thiếu phụ đượm vẻ đau khổ buồn rầu, tay trái cầm đao dài, tay phải cầm đao ngắn. Ánh sáng của hai lưỡi đao tỏa ra chói lọi, chứng tỏ đó là hai thanh bảo đao. Mặc dầu phải đánh với bốn người đàn ông lực lưỡng, võ nghệ cao cường đang vây nàng vào giữa, thiếu phụ chẳng chút khiếp sợ, liều mình chống cự.

Lý Mộng Ngọc đứng ngoài xem hai bên đánh nhau được mấy hiệp thì nhận xét được rằng bốn người đàn ông kia tìm cách đánh dồn cho đối phương phải vào trở lại phòng. Trái lại, thiếu phụ nhất định ngăn cản, quyết không cho bọn họ đến gần cửa phòng. Nàng giữ vững được vị trí, chỉ có tiến chứ không hề lùi bước.

Bốn người đàn ông này toàn là những cao thủ giang hồ cả. Một người sử dụng cây nhuyễn tiên, một người sử dụng cây hoài trượng, người thứ ba cầm kiếm, và người thứ tư múa câu quỉ đầu đao.

Cùng lúc ấy, Lục Phỉ Thanh cùng đám người xa kiệu cũng đã kéo nhau đến trước cửa phòng nơi đang diễn ra trận ác chiến. Lục Phỉ Thanh nhìn thấy, trong bụng nghĩ thầm rằng :

_Lạ thật! Sao lần xuất ngoại này mình toàn gặp những tay cao thủ cả?

Lục Phỉ Thanh đang ngơ ngác suy nghĩ thì thấy người đàn ông sử dụng cây hoài trượng giá thẳng lên, dùng hết sức bình sinh đánh xuống ngay đầu thiếu phụ. Thấy tình thế căng thẳng, thiếu phụ không dám đưa đao ra đỡ, chỉ né mình lách tránh.

Vừa tránh được cây hoài trượng thì ngọn nhuyễn tiên của người kia lại vụt đến ngay hông. Thiếu phụ tay tái múa thanh đao dài nhanh như chớp, gạt phăng được ngọn nhuyễn tiên ra, đồng thời chém thẳng tới một đao ngay cườm tay địch thủ. Cây nhuyễn tiên bị cây đao dài đánh bạt ra một cái quá mạnh đến dội ngược hẳn lại. Nhưng chủ nhân cây nhuyễn tiên bỗng nhiên chuyển lẹ nó sang ngay một thế khác định cuốn lấy cây đao. Thiếu phụ nhanh tay rút kịp đao về làm cho cây nhuyễn tiên kia “cuốn gió” thay vì cuốn lấy cây đao như dự định. Thế nhưng hiểm nguy vẫn chưa thoát khỏi được. Thanh quỉ đầu đao lúc đó từ đâu nhanh như cắt bổ xuống đầu hòa với mũi kiếm đâm thẳng vào hậu tâm thiếu phụ, hai mặt trên dưới cùng hiệp công một lượt. Thiếu phụ tay mặt cầm thanh đao ngắn gạt đường kiếm qua một bên rồi khẽ nghiêng đầu qua để né tránh thanh quỷ đầu đao. Mặc dầu thiếu phục ngăn được nhát quỷ đầu đao kia không để chém trúng đầu mình nhưng phía vai trái thì không tài nào lách kịp, liền bị chém trúng một nhát.

Mặc dầu thọ thương, thiếu phụ vẫn không chịu lùi bước, cứ ngang nhiên lăn sả vào vòng chiến. Hai cây đao vẫn nhanh nhẹn vô cùng, khi gạt tả, lúc chém hữu chống lại với bốn món binh khí. Nhưng máu tươi ở bả vai thiếu phụ vẫn tiếp tục tuôn ra. Nếu tình trạng này còn tiếp tục thì sẽ chẳng bao lâu thiếu phục sẽ phải gục ngã vì sức sẽ một lúc một yếu dần đi. Người cầm nhuyễn tiên bỗng nhiên la lớn :

- Đừng có giết hắn, mà cố phải bắt sống!

Lục Phỉ Thanh thấy bốn người đàn ông vây đánh một thiếu phụ thì trong lòng hết sức bất nhẫn. Lòng nghĩa hiệp của ông bỗng dưng lại nổi dậy. Sở dĩ ông còn do dự chưa nhảy vào giúp sức thiếu phụ là vì lại nghĩ đến cái họa của mình đang vướng phải, đang bị truy nã gắt gao, nếu để lộ tung tích có thể rước họa vào thân như không...

Lúc đó, người cầm hoài trượng liên tiếp dùng những đòn hiểm ác đánh ra bắt buộc thiếu phụ phải tránh né không ngừng. Đôi khi tránh né không kịp, đao ngắn của nàng ta phải gạt trượng qua một bên. Đao ngắn vừa gạt xong trượng thì đao dài lại phải chống đỡ mũi trường kiếm đâm tới.

Lục Phỉ Thanh thầm khen ngợi bản lãnh tuyệt diệu của thiếu phụ. Đứng trước cường địch đông đảo, người nào người nấy đều là những cao thủ có hạng trên giang hồ mà nàng vẫn không nao núng chút nào, dù phải “một đối bốn”. Đó là thiếu phụ đã bị thương, sức lực có phần suy giảm đi ít nhiều...

Cây đao của thiếu phụ vừa chạm mạnh vào trường kiếm của đối thủ thì “ánh lửa” lóe lên một cái. Chỉ thấy mấy tiếng “loảng xoảng”, cây đao đã rơi gọn xuống dưới đất.

Không bỏ lỡ cơ hội tốt, người sử kiếm quát lên một tiếng đâm tới một thế vô cùng hiểm ác. Thiếu phụ thấy vậy nhảy vọt sang phía bên mặt, tránh khỏi được ngọn kiếm. Ngay lúc đó, người sử dụng thanh quỷ đầu đao lại bổ xuống đầu thiếu phụ một cái, chân thì bước lên gần phía cửa phòng, toan xông vào. Nhưng thiếu phụ hình như không còn quan tâm chi đến việc sống chết nữa. Nàng cúi xuống, vừa tránh được ngọn quỷ đầu đao, vừa nhặt cây đao dài của mình lên, múa cả hai cây đao chém nhầu, quyết ngăn lại không cho hắn bước vào trong phòng.

Tên sử dụng quỷ đầu đao tưởng ba người đồng bọn dư sức yểm trợ được cho hắn cản thiếu phụ lại nên toan rắp tâm mở cửa phòng bước vào. Chưa kịp mở cửa, hắn chợt nghe “vèo vèo” hai tiếng đàng sau lưng. Cả kinh, hắn vội lách mình né tránh, nhưng đã quá trễ! “Phập phập” hai tiếng, trên ót, trên lưng hắn đã lãnh trọn hai mũi phi đao. Rất may cho hắn là nhờ thiếu phụ bị thương nên tay có phần yếu sức, vì vậy cả hai mũi phi đao cắm không sâu lắm nên hắn vẫn còn giữ được tánh mạng. Tuy không đến nỗi tuyệt mệnh, nhưng hai vết thương cũng hành hắn đau đớn khôn tả. Hắn kêu la ơi ới, cầu cứu với đồng bọn :

- Mau lùi lại! Rút giùm tôi hai ngọn phi đao ra không thì tôi chết mất!

Thiếu phụ tuy đả thương được một người nhưng chính bản thân nàng cũng trúng phải một cây hoài trượng khiến cho thân hình lảo đảo muốn ngã xuống. Thời may, ba tên còn lại thấy đồng bọn bị thương thì không hẹn mà cùng nhau lui về mấy bước. Một tên lo rút phi đao cứu nguy cho kẻ bị thương còn hai tên kia đứng thủ thế bảo vệ.

Thấy cường địch tạm thời lui bước, thiếu phụ lại liều mạng ra đứng trấn giữ cửa phòng. Lục Phỉ Thanh gọi Lý Mộng Ngọc lại ghé tai nói nhỏ :

- Thầy cho phép con tiếp tay với thiếu phụ đánh bọn người kia mà giải vây cho nàng. Nhưng con phải nhớ là đừng làm thiệt mạng bất cứ người nào.

Từ lúc mới đến, Lý Mộng Ngọc đã có ý định nhảy vào vòng chiến giúp người cô thế chốn lại bạo tàn chỉ ngặt chưa có phép của sư phụ nên đành đứng ngoài mà ngó, dù trong lòng cảm thấy hết sức bất bình, tay chân thì ngứa ngáy khó chịu. Nay được Lục Phỉ Thanh gọi đến giao phó cho trách nhiệm “bảo vệ”, và giúp đỡ cho thiếu phụ kia thì quả thật là trúng ý mình. Lý Mộng Ngọc cảm thấy vui mừng không xiết, không thể nào mà nói được.

Vụt một cái, Lý Mộng Ngọc đã nhảy đến đứng trước thiếu phụ, nhìn bốn người kia khảng khái lớn tiếng rằng :

- Bốn người đàn ông lại đi bao vây để đánh một người đàn bà! Sao mà đốn mạt thế? Thử hỏi những người có bản lãnh có chút danh tiếng có ai làm như thế không? Tại hạ giữa đường thấy sự bất bình không thể mắt ngơ tai điếc được, nhất định phải can thiệp vào bênh vực kẻ yếu chống lại đám đông ỷ thế hiếp cô!

Bốn gã kia thấy có người nhảy vào can thiệp lại mạt sát bọn hắn thậm tệ thì giận dữ vô cùng, nhìn Lý Mộng Ngọc như muốn ăn tươi nuốt sống. Bọn chúng đang định dàn trận đánh tiếp thì thấy trước cửa phòng của thiếu phụ từ đâu xuất hiện một số người đông đúc trông rất là hiên ngang vũ dũng. Thêm vào đó là người của tiêu cục, lại thêm cả quân lính của Tăng Đồ Nam đứng đầy, chật ních cả trong lẫn ngoài. Chúng biết là khó đương cự nổi nên rút còi ra thổi một hồi như báo hiệu rồi cùng nhau rút ra khỏi khách sạn mà chạy trốn.

Lúc ấy thiếu phụ trông người đã mệt lả, gương mặt xanh xao, mắt thì lừ đừ như chẳng còn chút sinh khí. Nàng dựa lưng vào cửa phòng thở hổn hển.

Lý Mộng Ngọc bèn chạy đến sát bên, kề miệng vào tai gọi :

- Tại sao bọn ấy lại bức hiếp tỷ tỷ đến thế?

Thiếu phụ chỉ lắc đầu mà không đáp. Dường như nàng đã quá đuối hơi, không còn đủ sức để nói. Tăng Đồ Nam bỗng chạy đến gần Lý Mộng Ngọc nói :

- Thưa tiểu thư. Thuộc hạ được lệnh phu nhân cho mời tiểu thư về gấp!

Rồi Tăng Đồ Nam lại rỉ tai Lý Mộng Ngọc nói :

- Sở dĩ phu nhân muốn gọi tiểu thư về là vì phu nhân nghe nói tiểu thư sinh sự đánh nhau nên lo lắng vậy thôi chứ không có gì quan trọng cả.

Thiếu phụ thấy Tăng Đồ Nam mặc võ phục của một vị tướng triều đình thì bỗng nhiên biến sắc. Nàng chợt thu hết vũ khí của mình lại rồi đi vào trong phòng đóng chặt cửa lại. Lý Mộng Ngọc không hiểu sao thiếu phụ lại có thái độ kỳ lạ như vậy, nhưng nàng cũng chẳng chút quan tâm, chỉ day qua Tăng Đồ Nam bảo :

- Được rồi! Tham tướng cứ về trước! Tôi sẽ đến hầu phu nhân sau.

Nói dứt lời, nàng chạy lại Lục Phỉ Thanh hỏi :

- Thầy à! Sao bọn họ lại quyết đấu ghê gớm thế? Thầy có hiểu vì lẽ gì không?

Lục Phỉ Thanh đáp :

- Thế đã thấm vào đâu! Giang hồ đầy rẫy oán thù. Những màn ẩu đả, đâm chém giết hại lẫn nhau vẫn thường xảy ra như cơm bữa vậy! Còn về chuyện này thì thầy chưa thể nào đoán ra được. Nhưng theo thầy nghĩ thì bốn tên nam nhân kia thế nào cũng sẽ trở lại. Cứ chờ xem sao.

Lý Mộng Ngọc còn đang định hỏi tiếp thì bỗng từ ngoài cửa có tiếng “mắng vốn” om sòm, vừa chửi vừa la :

- Ông bà ông vải, mả cha nhà bây dám khinh khi ông à? Bây để phòng trống đặng thờ cúng mả nội ông tằng ông tổ vợ bây chắc? Chắc là bây cho là ông nội bây đây không có tiền trả chứ gì?

Chỉ nội cái giọng điệu ấy thôi, ai cũng có thể đoán được ngay đó là tên tiêu sư Đổng Triệu Hòa chứ không ai khác hơn. Lại nghe tiếng một tên tửu bảo ở khách sạn nói như nài nỉ :

- Xin quan lớn đừng giận bọn tôi mà mắng chửi, tội nghiệp. Chúng tôi mở khách sạn là mục đích để đón rước quan khách, chiều khách, chứ có lẽ nào lại dám vô lễ với ngài? Thật không dám nói dối ngài, có mấy căn phòng đều có người mướn hết cả rồi!

Đổng Triệu Hòa lại hỏi :

- Căn phòng trên kia đã ai mướn đâu? Đưa ta lên đó xem thử!

Đổng Triệu Hòa vừa nói vừa chạy thẳng lên thì cùng lúc ấy, một thiếu phụ mở rộng cánh cửa phòng bước vào bên trong. Hắn nghe rõ tiếng đàn bà nói vọng ra :

- Ca Ca! Em vừa kiếm được cho anh một ly trà nóng đây! Ráng dậy mà uống cho đỡ khát.

Đổng Triệu Hòa đã được nhìn phớt qua thiếu phụ. Thấy dung nhan nàng kiều diễm, hắn cứ đứng trân người ra mà ngó, mắt không hề chớp. Lửa dục trong lòng hắn bốc lên dữ dội, tâm hồn say sưa ngây ngất.

Căn cứ vào thổ âm của thiếu phụ, nàng chắc là người Giang Nam bắt chước giọng nói của người Giang Bắc. Tiếng nói của thiếu phụ trong trẻo dịu dàng êm ái làm cho Đổng Triệu Hòa say mê chẳng khác nào bị hớp hồn. Hắn liền lên giọng “anh hùng tự phụ”, cố ý nói thật to để thấu đến tai thiếu phụ rằng hắn là một nhân vật có tên tuổi trong giang hồ :

- Đổng đại gia ta từ thuở giờ một khi đến đâu, muốn ăn thì ăn, muốn ở thì ở, không ai dám trái ý phật lòng. Thế mà quân chó chết ở đây dám khinh thị đại gia, cả gan dám nói là hết phòng! Thật là to gan lớn mật!

Miệng nói, mắt thì đăm đăm nhìn vào phòng. Sẵn dịp thiếu phụ chưa gài cửa, hắn xô mạnh bước sấn vào. Thiếu phụ bất ngờ nghe động liền quay lại. Nhìn thấy Đổng Triệu Hòa, nàng thét lên :

- Ối chao!

Vừa định xô hắn ra ngoài thì vết thương của thiếu phụ bị động, khiến nàng đau đớn, xây xẩm cả mặt mày. Đó là vết thương nàng bị đánh trúng một cây hoài trượng khá nặng, cộng thêm vết thương bị chém nơi bả vai mất khá nhiều máu.

Đổng Triệu Hòa vào được bên trong, thấy trên giường có một thanh niên đang nằm gối đầu. Trong phòng thiếu ánh sáng nên Đổng Triệu Hòa không nhìn được mặt mũi rõ ràng, chỉ thấy đầu và cánh tay người ấy quấn bít bùng vải trắng, khắp mình đều mang thương tích trầm trọng.

Nhìn thấy Đổng Triệu Hòa sấn đại vào phòng mình, người ấy lớn tiếng hỏi :

- Huynh đài là ai? Sao lại vào đây?

- Ta họ Đổng, làm tiêu sư cho Trấn Viễn tiêu cục, nhân đi bảo tiêu ngang qua vùng này. Vì hết phòng nên định vào đây nghỉ đỡ. Còn thiếu phụ kia là ai vậy? Có phải vợ huynh đó không? Nàng đẹp lắm đấy!

Người trên giường cả giận hét lên :

- Ngươi mau ra khỏi đây mau, nếu không thì chết!

Có lẽ vì bị thương quá nặng nên tiếng hét của người ấy không được lớn lắm, nhưng giọng nói rất trang nghiêm oai vệ khác thường.

Đổng Triệu Hòa đã được chứng kiến thiếu phụ ấy đánh nhau trí mạng với bọn người kia thì biết rằng nàng là một người có võ nghệ hết sức cao siêu, mà nếu người này là chồng nàng thì chắc bản lãnh cũng ít nhất phải tương đương như vậy. Vì thế, hắn hiểu là không thể dùng uy vũ mà bức hiếp được. Nhưng khi nhìn thấy cả hai người đều mang thương tích, kẻ thì bất tỉnh, người thì nằm bất động trên giường nên lại đâm ra khinh thường, không sợ. Cho là cơ hội tốt để chiếm đoạt mỹ nhân, hắn bèn cười nhạt nói :

- Tốt hơn hết là anh nên để tôi ở chung phòng này thì may ra tánh mạng của vợ chồng anh mới mong được bảo toàn, không bị kẻ thù truy sát. Anh đứng có dại dột đến thế chứ! Sự hiện diện của tôi còn làm kẻ thù kính nể chứ như anh thì còn làm gì được đây?

Người đàn ông trên giường nghe Đổng Triệu Hòa nói bằng một giọng vô lễ khinh bạc thì không dằn được cơn thịnh nộ. Uất khí xung lên, mắt chàng trợn tròng, mặt đỏ bừng lên, toàn thân run rẩy.

Bất chợt, thiếu phụ chạy đến bên giường ôm người đàn ông vào lòng, miệng an ủi rằng :

- Anh à! Thây kệ hắn! Đừng quan tâm tới những lời nói của những kẻ vô lại, vô lương tâm làm gì, cứ lo mà tĩnh dưỡng cho sớm bình phục. Lúc này chưa phải lúc chúng ta gây thêm oán cừu. Cứ cố mà nhẫn nhịn vẫn hơn.

Đoạn day qua Đổng Triệu Hòa, nàng trợn mắt quát lên :

- Mau ra khỏi nơi đây! Tôi không muốn bị ai làm rộn cả. Mong ông hãy tự trọng, giữ cái giá trị của con người một chút!

Đổng Triệu Hòa nham nhở cười đáp :

- Sao nàng lại đang tâm mà xua đuổi thôi thế? Bộ nàng không thích tôi ở đây giúp nàng à?

Người đàn ông trên giường bỗng vùng dậy, thét lên như sấm :

- A, cái tên này láo thật! Ngươi có dám đến gần đây cho ta rõ mặt mũi thế nào mà dám ăn nói hồ đồ xấc xược như thế không?

Đổng Triệu Hòa nghĩ là người đàn ông kia đang mang trọng thương khắp mình nên không tài nào làm gì nổi hắn nên ngang nhiên bước thẳng tới cười nói :

- Này đây! Muốn xem thì xem cho biết Đổng lão gia khôi ngô tuấn tú như thế nào!

Người đàn ông dịu giọng, ôn tồn nói :

- Xem chưa được rõ ràng lắm, hãy lại gần thêm tí nữa!

Đổng Triệu Hòa cười sằng sặc, tiến lên thêm một bước nữa thiếu chút nữa là đựng vào mình người thiếu phụ làm nàng bẽn lẽn như hoảng hốt buông người đàn ông trên giuờng ra theo phản ứng tự nhiên. Đổng Triệu Hòa đắc ý bảo :

- Xem đi! Xem cho tường tận đi! Nếu được thì nhận ta làm đại ca, ta sẽ giúp đỡ cho. Tội nghiệp... thân xác như thế này thì chỉ làm khổ cho người đàn bà trẻ trung duyên dáng kia mà thôi! Lão Đổng thấy mà cảm khái cho thân phận...

Hắn nói chưa dứt câu thì người đàn ông trên giường ngồi phắt dậy, và nhanh như điện xẹt, tay trái điểm vào “Khí Dũ Huyệt” một cái thật nhẹ nhàng rồi sẵn trớn vận nội công dùng thế “Viên Hầu Trịch Quả” đấm mạnh vào lưng Đổng Triệu Hòa. Tự nhiên, Đổng Triệu Hòa thấy toàn thân tức khắc nhẹ như lông hồng, chẳng khác “đằng vân giá vũ”, bay văng ra khỏi cửa một cái vụt. “Bịch” một tiếng, cả thân hình Đổng Triệu Hòa đã nằm xuống đất một đống ngoài cửa phòng.

Đổng Triệu Hòa bị điểm trúng huyệt đạo nên chỉ kêu “ứ ứ” mà chẳng la thành tiếng được. Hắn nằm ngửa dẫy dụa trông giống như một con cá nằm trên cạn bị đánh dập đầu. May thay, có một tên xa phu trong đoàn bảo tiêu của Trấn Viễn tiêu cục đi ngang qua trông thấy hắn liền nâng hắn dậy kêu réo om sòm :

- Đổng đại gia! Rán tỉnh dậy về lại phòng! Đừng nên sinh sự nữa! Các vị tiêu sư cho biết là cả hai người ấy là cao thủ của Hồng Hoa hội đấy!

Đổng Triệu Hòa nghe nói bỗng khắp mình tuôn mồ hôi ướt đẫm. Gắng gượng lắm, hắn mới thốt lên được một câu :

- Ối... ối... chết mất rồi! Chân ta bị trật khớp xương không còn cử động được nữa!... Tôn lão tam, mi nói... mi nói... hai đứa... đó là... cao thủ... của... Hồng Hoa hội thật sao?

Gã xa phu họ Tôn nói :

- Trong khách sạn đều xầm xì với nhau như vậy. Vừa rồi có bốn cao thủ võ lâm được phái đến để bắt sống cả hai giải về cho Hoàng thượng nhưng không thành công mà chỉ gây nên một trận ác chiến. Lão gia không nghe chuyện đó hay sao?

Bấy giờ trong khách sạn đã hay biết việc Đổng Triệu Hòa bị điểm huyệt nên tụ họp lại bàn tán xôn xao. Quang cảnh thật là hết sức huyên náo. Diêm Thế Chương đi ngang qua thấy vậy bèn hỏi :

- Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Đổng Triệu Hòa lúc bấy giờ mới hoàn hồn, nhìn Diêm Thế Chương như cầu khẩn, giọng vô cùng thảm não :

- Diêm lục ca à! Làm ơn dìu hộ lão Đổng này về phòng trước đi rồi sẽ thuật lại đầu đuôi cho Diêm lục ca nghe. Lão Đổng đã thành phế nhân rồi, đi đứng một mình không vững nữa!

Diêm Thế Chương tuy nghe nói vậy nhưng vẫn chưa tin hoàn toàn. Hắn cho là Đổng Triệu Hòa “nằm vạ” hoặc giả “có ít phít ra nhiều”. Nghĩ thì nghĩ vậy, song Diêm Thế Chương vẫn cúi xuống đỡ Đổng Triệu Hòa dậy rồi khẽ buông tay cho hắn đứng xuống đất đặng dắt đi. Chẳng ngờ vừa buông tay ra thì thân Đổng Triệu Hòa bỗng mềm nhũn như bún thiu, miệng nói lèo tèo mà tay chân như rụng rời ra cả nên khi Diêm Thế Chương vừa buông tay ra thì hắn quỵ ngay xuống đất chứ không thể nào đứng vững được.

Đổng Triệu Hòa đau đớn la lên :

- Ối trời ơi! Đau chết mất đi thôi! Tôi không thể nào đi đứng được, dường như xụi hết gân cốt rồi! Tôn lão tam đâu, làm ơn đỡ giùm tôi một chút!

Đổng Triệu Hòa chỉ còn biết kêu la chứ không còn cựa quậy nổi. Diêm Thế Chương sau khi xem xét kỹ lưỡng thì biết rõ là Đổng Triệu Hòa bị điểm huyệt nên hỏi hắn :

- Bị kẻ nào đánh mà ra nông nỗi này?

Đổng Triệu Hòa nước mắt chan hòa, mặt ủ mày châu, hướng về phía phòng của thiếu phụ và người đàn ông thương tích đầy mình mà đánh hắn.

- Diêm lục ca ơi! Trong phòng kia có một tay bản lãnh rất cao siêu, bọn ta không ai có thể đương đầu với hắn được đâu.

Đổng Triệu Hòa trong lúc bị khốn đốn như vậy mà trong lòng vẫn thủ đoạn mánh lới, cố ý khiêu khích dụ cho Diêm Thế Chương nổi “anh hùng tính” để đi gặp người đàn ông kia quyết đấu. Nếu Diêm Thế Chương hạ được người đàn ông kia thì coi như y cũng mượn được tay người khác trả thù hộ cho hắn. Còn rủi như Diêm Thế Chương bại, bị người kia đả thương thì hắn cũng có được một người “đồng thuyền” để khỏi phải bị “đau khổ một mình”.

Thấy Diêm Thế Chương không mấy gì để ý đến lời hắn, Đổng Triệu Hòa bèn nghĩ ngay được một cách khác nói :

- Cái tên điểm huyệt đệ có một con vợ cũng ghê gớm lắm vì cả hai đứa đều là cao thủ trong Hồng Hoa hội. Chẳng trách sao Tiêu tam gia không bị chúng ám sát một cách bí mật. Bây giờ chúng lại còn công khai ra mặt khiêu chiến với Trấn Viễn tiêu cục nữa. Theo đệ nghĩ thì Hồng Hoa hội là một đảng phái chống lại triều đình. Chúng ta phải tìm cách mà diệt trừ chúng đi, vừa để trả thù riêng, vừa lập công với Hoàng thượng. Huynh nghĩ thế nào?

Diêm Thế Chương ghe Đổng Triệu Hòa nói thấy cũng có đôi phần hợp lý. Nhưng khi nhớ lại trước đây hắn từng mắng xiên mắng xỏ anh em hắn cùng nhóm Quảng Đông lục ma nên cũng tảng lờ chứ hoàn toàn chẳng buồn có ý kiến gì. Cúi đầu suy nghĩ một hồi, hắn lại tính thầm trong bụng rằng :

- “Người kia có tài điểm huyệt như thế tất võ công phải cao cường, vào bậc siêu đẳng vì từ xưa đến nay, những ai giỏi về khoa điểm huyệt đều là những tay võ nghệ tuyệt luân cả.

Diêm Thế Chương tự lượng sức hắn, nhận thấy không thể nào thắng nổi người điểm huyệt Đổng Triệu Hòa kia. Hơn nữa, anh hắn là Diêm Thế Khôi đã chết rồi, mà Tiêu Văn Kỳ lại mất tích, thành ra uy lực của Quảng Đông lục ma đã mất đi một phần ba. Chẳng những thế, đâu phải há chỉ có hai vợ chồng trên phòng kia thôi, Hồng Hoa hội còn quy tụ đại đa số những cao thủ bậc nhất trong các phái võ lâm, cho đến ngay cả triều đình kia còn chưa trừ nổi! Nếu vô cớ mà gây thêm oán cừu thì chỉ tạo thêm rắc rối nguy hiểm cho mình thôi chứ chẳng được lợi lộc gì. Còn như không biết tự lượng sức mình thì không khéo rồi đây lại vô tình mắc mưu Đổng Triệu Hòa, giúp hắn bảo vệ cái bao hồng đựng Khả Lan kinh kia, để rồi chỉ một mình hắn được hưởng hết tất cả một khi cái bao màu hồng kia được trao tận tay đến Triệu tướng quân. Cái gương của Diêm Thế Khôi, anh ruột hắn vẫn còn sừng sững ở đấy.

“Cạn nghĩ cùng suy”, Diêm Thế Chương vẫn do dự, vẫn không biết phải tính làm sao. Khi đó, tiêu sư Tiền Chính Luân đi ngang qua. Thấy Tôn lão tam, y dừng lại hỏi :

- Trong khách sạn này có người của Hồng Hoa hội thật sao?

Tôn lão tam đến gần, kề sát miệng vào tai Tiền Chính Luân nói nhỏ :

- Dạ, tôi biết rõ vì lúc bốn người đàn ông vây đánh một thiếu phụ nọ mà không bắt sống được thì cùng lên ngựa chạy đi. Khi bốn người ấy ra khỏi khách sạn thì họ có dặn một người lạ mặt đi qua đi lại ở ngã ba đường rằng: “Anh phải ráng mà coi chừng trước cửa khách sạn này cho kỹ, đừng để con thiếu phụ kia đưa thằng thanh niên kia trốn ra được, vì hai vợ chồng đó là khâm phạm của triều đình, là hai tay cừ khôi trong Hồng Hoa hội đó. Bọn tôi được hoàng đế đặc phái đến bắt cả hai giải về kinh đô. Nhưng bất ngờ bọn chúng có được nhiều kẻ đến tiếp viện nên thành ra chúng tôi đành thất bại. Giờ chúng tôi phải tức tốc đi báo tin cho quan binh địa phương cùng hợp sức để đối phó thì mới hoàn thành trách nhiệm được”. Chính tai tôi nghe rõ ràng câu chuyện của bốn người kia nói với đồng bọn nên chắc chắn không thể nào sai lầm được.

Tiền Chính Luân tuổi ngoài 50, làm tiêu sư đã lâu, từng trải giang hồ, võ nghệ cao cường, lại biết nhìn xa hiểu rộng nên rất được Vương Duy Dương tin dùng. Nghe qua những lời của Tôn lão tam, Tiền Chính Luân khẽ đưa mắt nhìn Diêm Thế Chương láy một cái. Hội ý, Diêm Thế Chương liền mau mau đưa giúp Tôn lão tam đỡ Đổng Triệu Hòa dậy đưa hắn về phòng nghỉ ngơi. Sau đó Diêm Thế Chương ra gặp riêng Tiền Chính Luân hỏi :

- Chúng ta nên đối phó như thế nào đây?

Tiền Chính Luân đáp :

- Quả đúng là người trong Hồng Hoa hội! Hiện thời tốt hơn hết là chúng ta khoan đụng đến chúng vội, chờ hỏi lại Đổng Triệu Hòa cho rõ ràng bản lãnh của hai người đó ra sao rồi sẽ tùy cơ ứng biến sau.

Rồi Tiền Chính Luân lại hỏi tiếp Tôn lãi tam rằng :

- Lão thấy hai vợ chồng người ấy giao đấu với bốn người đàn ông kia chứ?

Tôn lão tam thưa :

- Tôi mê mẩn mục kích, tưởng trong đời chưa bao giờ thấy được một trận ác chiến ghê gớm như vậy. Nhưng chỉ có một người thiếu phụ giao đấu với bốn người kia thôi chứ không có một người đàn ông nào cả. Người thiếu phụ kia vừa trẻ vừa đẹp, sử dụng hai cây đao một ngắn, một dài. Bốn người đàn ông kia võ nghệ cao cường, sức mạnh kinh hồn cùng nhau hợp sức đánh, dùng bốn món binh khí thật lợi hại thế mà không thắng nổi nàng đấy! Nàng đỡ trước ngăn sau, đón đông né tây, chém trên đâm dưới, thật chẳng khác gi một mãnh hổ tung hoành giữa đàn dê. Ngoài việc đấu với bốn người, hình như nàng còn cố giữ không cho ai vào được căn phòng đó nên có lẽ vì thế mà bị giới hạn đi sự lợi hại phần nào, nếu không thì bốn người kia còn khốn đốn nhiều nữa!

Tiền Chính Luân nghe nói một hồi bỗng kinh ngạc kêu lên :

- Thôi! Bản lãnh sử đao như thế thì đích thị là Thần Đao Lạc gia rồi!

Day qua Tôn lão tam, Tiền Chính Luân lại hỏi :

- Lão thấy thiếu phụ ấy phóng phi đao phải không?

Tôn lão tam gật đầu lia lịa đáp :

- Đúng vậy! Nàng ta phóng hai phi đao khiến cho một người bị thương đến hai chỗ, một gần ngay ót, và một ngay trên lưng. Phóng xong, nàng thâu phi đao lại nhanh như chớp, chính tôi không tài nào thấy kịp!

Tiền Chính Luân nét mặt lộ vẻ lo lắng nhìn Diêm Thế Chương nói :

- Nhân vật thứ tư của Hồng Hoa hội đang có mặt tại khách sạn này rồi, không còn gì để nghi ngờ nữa!

Không nói thêm một lời nào, Tiền Chính Luân bèn theo Diêm Thế Chương đi thẳng về phòng Đổng Triệu Hòa để lo việc sắc thuốc, cứu chữa cho y. Tôn lão tam cũng nối gót theo sau...

Tất cả mọi việc xảy ra tại khách sạn đều không qua khỏi được cặp mắt của Lục Phỉ Thanh. Ngay cả những việc đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục bàn luận với nhau đều lọt vào tai ông cả. Nhất là hai câu sau cùng của Tiền Chính Luân nói với Diêm Thế Chương là rõ ràng nhất, đáng chú ý hơn cả.

Sau khi người của Trấn Viễn tiêu cục đi rồi thì Lý Mộng Ngọc lại đến. Vừa gặp Lục Phỉ Thanh, nàng đã lên tiếng hỏi ngay :

- Thưa sư phụ! Bao giờ thầy mới truyền cho con phép điểm huyệt đây? Ôi! Phép ấy thật là hay quá, tài tình quá! Đã không phải phí sức nhiều mà vẫn hạ được địch thủ dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chỉ một ngón tay cũng dư sức làm cho địch thủ biến từ con hổ thành ra con trùng.

Như đang bận suy nghĩ điều gì, Lục Phỉ Thanh không trả lời câu hỏi của Lý Mộng Ngọc. Ông ta tự bảo thầm trong lòng :

- “Nếu thiếu phụ ấy quả thật là con cháu của Thần Đao Lạc gia thì ta phải can thiệp chứ không thể làm ngơ được”.

Lý Mộng Ngọc lại hỏi :

- Thưa thầy, Thần Đao họ Lạc là ai vậy?

Lục Phỉ Thanh đáp :

- Tức là Thần Đao Lạc Nguyên Thông, với thầy là chỗ thâm giao, khi xưa từng thề nguyền sống chết với nhau. Đã lâu rồi, thầy không được gặp lại, mới đây có nghe tin họ Lạc đã qua đời. Tình cờ hôm nay thầy trông thấy thiếu phụ kia sử dụng đao pháp giống hệt như của Lạc Nguyên Thông. Thiếu phụ kia nếu không phải là con cháu thì cũng là đồ đệ của Lạc Nguyên Thông chứ không ai khác hơn vào đây được. Vả lại, từ xưa đến nay, chỉ có họ Lạc là xuất sắc về phép phóng phi đao mà thôi. Vì vậy, trong giới giang hồ mới đặt biệt danh là “Thần Đao Lạc gia”. Đã vậy, Lạc Nguyên Thông lại rất kén chọn môn đồ nên chưa hề nghe họ Lạc thâu nhận và truyền thụ phép phóng phì đao đó cho ai cả. Theo thầy nghĩ, thiếu phụ có bản lãnh phi thường kia chính là ái nữ của Lạc Nguyên Thông.

Lục Phi Thanh ân hận về vấn đề đại sự của ông ta thất bại đến nỗi phải ẩn tích mai danh ngót mười mấy năm trời nên bao nhiêu diễn biến trên giang hồ trong thời gian ấy không được hay biết gì cả. Mười mấy năm trôi lẹ như mây như gió, nay tái xuất giang hồ nhìn thấy bao nhiêu điều mới lạ! Đang suy nghĩ, ông nhìn thấy hai tiêu sư Tiền Chính Luân và Thái Minh Vĩnh, mỗi người một bên vai để cho Đổng Triệu Hòa vịn lên để dìu đi ngang qua mặt ông ta. Lục Phỉ Thanh vội vàng quay đi tức khắc để tránh, không cho hai người nhìn thấy mặt mình. Chợt đâu có tiếng của Tôn lão tam vang lên :

- Các vị tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục là Tiền Chính Luân, Thái Minh Vĩnh, và Đổng Triệu Hòa xin đến bái kiến Văn tứ đương gia của Hồng Hoa hội.

Liền khi ấy, cánh cửa phòng mở ra. Thiếu phụ bước tới đứng sẵn mé trước nhìn bốn người của Trấn Viễn tiêu cục đang chậm rãi đi tới. Tôn lão tam đi đầu, hai tay cầm ba tờ giấy lễ phép hướng về thiếu phụ kính cẩn trao, nhưng thiếu phụ không nhận, và cũng không nói rõ lý do nào.

Ba tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục cùng với Tôn lão tam vẫn kiên nhẫn đứng chờ. Thiếu phụ quay lưng, khép sơ cánh cửa lại, trở vào bên trong đến trước mặt người đàn ông nằm trên giường như thương lượng điều gì đó. Độ một lát sau, thiếu phụ lại xô cửa bước ra nhìn bốn người nói :

- Xin mời các vị vào bên trong nói chuyện.

Bốn người bên Trấn Viễn tiêu cục liền theo gót nàng vào phòng. Thiếu phụ đứng sát bên người đàn ông đang ở trên giường day mặt ra, không rời xa nửa bước. Người đàn ông vẫn nằm tỉnh bơ, cặp mắt sáng long lanh như gương nhìn đăm đăm vào bốn người mới vào không nháy.

Thấy cả bốn người đều mặc áo dài, không đeo binh khí, mặt không lộ vẻ gì là hung dữ, trái lại còn tỏ vẻ lễ độ kính cẩn là đàng khác. Nhưng sắc mặt người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi, ý chừng còn nghi ngờ đám người kia có thể định giở ngụy kế gì ra. Tiền Chính Luân với thái độ cung kính, vòng tay mở lời trước :

- Người anh em trong tiêu cục thật có mắt không tròng thành thử không nhận ra được Văn tứ gia nên mới thô lỗ xúc phạm đến oai hùm, tội thật đáng trừng trị tuyệt nhiên không dám thán oán chi cả. Chúng tôi không thể bỏ qua nên cùng nhau đến đây chịu lỗi, mong rằng tứ gia khoan hồng, lấy lượng bao dung mà châm chế cho.

Tiền Chính Luân nói xong liền hướng vào người đàn ông trên giuờng vái một cái thật dài. Thái Vĩnh Minh và Tôn lão tam cũng bắt chước vái theo, tỏ lòng thành thật và cung kính.

Người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi sắc mặt, làm như không nghe thấy gì cả. Thiếu phụ bèn kề vài tai người đàn ông ấy nói :

- Anh à! Có mấy vị tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục đến xin lỗi về câu chuyện sai quấy của một người ban nãy xúc phạm đến anh.

Người đàn ông trên giường vẫn ngậm miệng làm thinh không nói. Tiền Chính Luân lại nói :

- Thưa Văn tứ nhưng nhưng, mặc dầu chúng tôi chưa có dịp gặp mặt nhưng lâu nay chúng tôi rất ngưỡng mộ thanh danh của Tứ đương gia. Vả lại, vị Tổng tiêu đầu của chúng tôi là Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương với cùng với lão nhân gia của quý hội là vị Tổng đà chủ tiền nhiệm Vu lão anh hùng cũng như lệnh tôn Lạc lão gia xưa nay giao tình rất hậu, có thể nói như người một nhà chứ chẳng phải xa lạ. Tiếc thay, người anh em chúng tôi lại không biết nên mới hành sự hồ đồ mà xúc phạm như thế, thật là không nên không phải chút nào cả. Mong rằng Tứ đương gia cùng nhưng nhưng nể tình Vương tổng tiêu đầu chúng tôi và lòng thật tâm hối cải của người anh em mà tha thứ cho vậy.

Thiếu phụ cũng lễ phép hướng về đám tiêu sư đáp lại :

- Quý vị lượng thứ cho vì Tứ đương gia của chúng tôi bị trọng thương mê man bất tỉnh nên không thể ngồi dậy mà tiếp quý vị được chứ chẳng phải vì căm hờn hay oán giận gì quý vị mà không đáp lễ. Xin để khi Tứ đương gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ đem những lời vàng ngọc kia mà thuật lại. Đã hai ngày đêm Tứ đương gia chúng tôi khi mê khi tỉnh như vậy đó. Mong quý vị cũng đừng chấp nhặt và phiền trách làm chi.

Thiếu phụ dùng lời rất nhỏ nhẹ, êm ái hòa nhã mà đối đáp với người của Trấn Viễn tiêu cục vì nàng nhận thấy trong hoàn cảnh này thì “thêm bạn bớt thù” vẫn hay hơn. Miệng nàng nói mà mặt thì hiện ra những nét lo âu buồn bã như hoa cúc ủ ê, như cành mai tàn tạ.

Tiền Chính Luân trông thấy người đàn ông nằm trên giường toàn thân đều băng bó vải trắng thì biết rằng những lời nói của thiếu phụ là chân thật chứ không phải điêu ngoa giả trá. Nhân được dịp, hắn bèn nói luôn :

- Chẳng hay Văn tứ đương gia bị thương ra sao mà trầm trọng thế? Chúng tôi sẵn có thuốc kim thương mang theo bên mình. Nếu nhưng nhưng cần dùng thì chúng tôi nguyện xin dâng lên.

Tiền Chính Luân muốn mua chuộc chút cảm tình cho mai sau nên mới chịu đề nghị biếu thuốc kim thương chứ chẳng phải là tử tế gì. Hơn nữa hắn cũng muốn làm chút “ơn mọn” để có dịp nhờ thiếu phụ nói hộ, nhờ người đàn ông kia giải huyệt để cứu mạng Đổng Triệu Hòa cho khỏi nguy đến tánh mạng đó thôi. Nhưng không ngờ thiếu phụ lại nói :

- Đa tạ hảo tâm của chư liệt vị, nhưng chúng tôi cũng có mang theo thuốc kim thương theo phòng khi cần đến rồi!

Tiền Chính Luân thất vọng. Nhưng hắn nhìn thấy thiếu phụ có vẻ hiền nhân đức độ nên bèn đề cập ngay đến điều sở cầu của bọn chúng :

- Người anh em của chúng tôi vì xúc phạm Tứ đương gia nên bị điểm huyệt tê liệt gân cốt, bủn rủn tứ chi, dám mong nhưng nhưng cứu giúp làm phúc.

Thiếu phụ ôn tồn nói :

- Tứ đương gia của chúng tôi khi nóng giận không dằn được, nhưng không có ý làm tổn đến tánh mạng của Đổng tiêu sư nên chỉ điểm vào huyệt nhẹ mà thôi. Do đó, chư vị cũng không có gì phải lo lắng đâu. Quý vị cứ an lòng về phòng tạm nghỉ, chờ cho Tứ đương gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ yêu cầu người giải huyệt cho ắt hết ngay.

Tiền Chính Luân nghe thiếu phụ hứa sẽ giải cứu cho Đổng Triệu Hòa thì mừng lắm, bèn cùng Thái Vĩnh Minh và Tôn lão tam đỡ Đổng Triệu Hòa cáo từ thiếu phụ mà thối lui về phòng. Khi tất cả sắp sửa bước ra khỏi cửa, thiếu phụ như sực nhớ ra điều gì bèn đón lại hỏi :

- À quên! Chẳng hay chư vị làm sao mà biết được tên họ của tôi?

Tiền Chính Luân đáp :

- Nhìn nhưng nhưng sử dụng cặp Uyên Ương đao, lại được thưởng thức tài phóng phi đao một lần hai cái nhanh như chớp thì đủ hiểu. Trên giang hồ, trừ Thần Đao họ Lạc ra thì còn ai vào đó nữa?

- Còn Văn tứ đương gia của chúng tôi thì sao quý vị lại biết được?

- Cái phép điểm huyệt của Văn tứ đương gia vang dậy như sấm nổ bên tai, chỉ cần thấy qua là nhận được ngay, tưởng nhưng nhưng không nên lấy làm lạ! Nhìn cặp đao với lối phóng phi đao và phép điểm huyệt, chúng tôi tự nhiên phải biết đó là Uyên Ương đao Lạc Băng với Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai thôi!

Lạc Băng (tức thiếu phụ) mỉm miệng cười. Cái nụ cười “ngả quán xiêu đình” làm cho Đổng Triệu Hòa như thây ma chờ chôn bỗng nhiên siêu hồn lạc phách ngã sụm trên vai Tiền Chính Luân...
Bạn có thể dùng phím mũi tên trái/phải để lùi/sang chương.
Bạn chấm truyện được mấy điểm!
loading...
DMCA.com Protection Status